Xây dựng chủ nghĩa
xã hội quan hệ chặt chẽ với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu khách
quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa quy định tính tất yếu khách
quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội quy định và đòi hỏi những chủ nhân của sự nghiệp ấy phải có nghĩa vụ, trách
nhiệm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và nó đã được luật pháp hóa, thể hiện sâu
sắc trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, tại
Chương 4, từ Điều 64 đến Điều 68 của Chương 4: Bảo vệ Tổ quốc.
Tổ quốc là một phạm trù lịch sử, gồm hai phương diện tự
nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau, quy định và
chế ước lẫn nhau, không thể tách rời nhau. Những yếu tố tự nhiên, địa bàn cư
trú và hoạt động thực tiễn của cộng đồng dân cư cùng với quá trình đấu tranh
sinh tồn, phát triển luôn gắn bó chặt chẽ với những yếu tố chính trị - xã hội
và chế độ kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội được xây dựng trên nó. Bản chất
của chế độ xã hội quy định tính chất, đặc điểm của tổ quốc trong mỗi giai đoạn
lịch sử cụ thể. Vì vậy, bảo vệ tổ quốc nói chung, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nói riêng tuy có khác nhau về không gian,
thời gian nhưng đều giống nhau ở chỗ: là một quá trình thống nhất biện chứng
giữa hai mặt bảo vệ: tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội và nội dung bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không nằm ngoài nhiệm vụ bảo vệ các nội dung thuộc
hai mặt nêu trên.
Xét về mặt tự nhiên - lịch sử, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ
từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia và sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ những giá trị văn hoá truyền
thống; bảo vệ lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Xét về mặt chính trị - xã hội, bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa là bảo vệ quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân, bảo vệ chế độ
chính trị - xã hội mà giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ những thiết chế và hệ thống chính trị; quyền làm chủ của nhân
dân; bảo vệ những quan hệ quốc tế xã hội chủ nghĩa mà giai cấp công nhân dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã thiết lập, đang xây dựng và ngày càng làm cho
các yếu tố của chủ nghĩa xã hội lớn dần lên và phát triển bền vững.
Địa vực, lãnh thổ sinh tồn của Việt
Nam ngày nay không chỉ là vùng đất, vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo mà
còn bao gồm lãnh hải, các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, khoáng sản, tài
nguyên thiên nhiên… Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay không chỉ là
truyền thống văn hóa đã hình thành từ lâu đời, mà còn là sự kế thừa, nối tiếp,
phát triển, làm giàu có, sâu sắc hơn hệ giá trị văn hóa truyền thống và hiện
đại.
Có thể khẳng định rằng, Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một thực thể
thống nhất về tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội, bao gồm toàn bộ
các yếu tố địa lý, lãnh thổ, dân cư, các giá trị văn hoá - lịch sử, lợi ích
kinh tế, quyền lực chính trị và chế độ xã hội chủ nghĩa. Cho nên, bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chính là bảo vệ hai mặt thống nhất biện chúng:
tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội
đã và đang kiến tạo nên Tổ quốc ta hiện nay và các nội dung mà chúng ta đang
xây dựng.
Xuất phát từ
lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn xác định đúng đắn mục tiêu,
nhiệm vụ và phương thức bảo vệ Tổ quốc phù hợp với từng giai đoạn của cách
mạng. Các văn kiện, tài liệu của Đảng, đặc biệt là các Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng từ năm 1986 đến nay đã thể hiện sâu sắc sự nhất quán về
đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Trong đó, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI của Đảng ngày
càng phản ánh đầy đủ, chính xác các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh; thực
tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế.
Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: Bảo vệ vững chắc Tổ quốc
làn bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh
kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương,
an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và
làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất
ngờ.
Ngoài việc
khẳng định rõ sự nhất quán của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc về mặt tự nhiên - lịch
sử là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, tức là bảo vệ
vùng đất, vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo, thềm lục địa, khoáng sản,
tài nguyên thiên nhiên của đất nước mà các Đại hội Đảng trước đây đã khẳng
định; Đại hội X nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc về mặt chính trị - xã hội là
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh
chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì
trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước.
Như vậy,
xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong các văn kiện của mình,
Đảng ta đều chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt của một vấn đề bảo vệ Tổ
quốc là tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội. Hai mặt này có quan hệ chặt
chẽ với nhau, bổ sung và quy định lẫn nhau nhằm một mục đích: “ngăn ngừa, đẩy
lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị
động, bất ngờ”.
Qua thực tiễn đổi mới toàn diện đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Đảng ta xác định rõ hơn mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là: “Bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ
quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động
ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù
địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính
toàn cầu, không để bị động, bất ngờ, trong mọi tình huống”[1].
Nhìn chung, nội hàm bảo vệ Tổ quốc mà Đại hội XI nêu ra cơ bản thống nhất
với nội hàm bảo vệ Tổ quốc mà Đại hội X đã khẳng định. Tuy nhiên, xét về mặt tự
nhiên - lịch sử, lần này, trong Văn kiện Đại hội XI, nội hàm bảo vệ Tổ quốc đã
được Đảng ta bổ sung cụm từ mới “giữ vững
chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời” nhằm nhấn mạnh và khẳng định rõ
ràng hơn vai trò, nhiệm vụ bảo vệ biển đảo của Tổ quốc; điều đó hoàn toàn thống
nhất với Chiến lược khai thác và bảo vệ biển đảo, thềm lục địa mà toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta đang khẩn trương triển khai, ra sức thực hiện. Xét về
mặt chính trị - xã hội, ngoài mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc như đã nêu ở
Văn kiện Đại hội X và các đại hội Đảng trước đó; lần này, trong Văn kiện Đại
hội XI, xét về mặt chính trị - xã hội, nội hàm bảo vệ Tổ quốc còn được Đảng ta
bổ sung thêm cụm từ: “sẵn sàng ứng phó
với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu”. Đây là điểm
mới, phản ánh rõ hơn quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về mục
tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Tại Hội Nghị Trung ương 8, khóa XI về Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta nhấn mạnh: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm
đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Vì vậy, mọi hành vi chống lại độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều bị nghiêm trị. Bởi vì, đối với mỗi người dân Việt Nam yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc là thiêng liêng, là bất khả
xâm phạm và bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công
dân. Cho nên, công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ
quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với xây dựng và củng
cố thế trận an ninh nhân dân vững mạnh; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội, tạo môi trường hòa bình để nhân dân an tâm sản xuất, phát triển
kinh tế, xây dựng đất nước; phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Đó là niềm vinh dự, tự hào; là quyền
lợi và nghĩa vụ chính đáng của mỗi công dân. Vì lẽ đó, tại khoản 2, Điều 44 của
bản Hiến pháp mới viết: “Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất”.
Nét mới và là một trong những điểm độc đáo, đặc sắc của bản Hiến pháp 2013
nói chung, của Khoản 1, Điều 64, Chương 4 về bảo vệ Tổ quốc nói riêng là sự
khẳng định rõ ràng, nhất quán quan điểm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta về
việc: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân”. Giờ
đây, trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta hiểu sâu sắc rằng, chủ
thể bảo vệ Tổ quốc là toàn thể nhân dân ta, là sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc không phải là chung chung, trừu
tượng mà phải gắn liền với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là sự tác động
biện chứng giữa bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, tức
là bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc gắn chặt với bảo vệ Đảng, Nhà
nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân và bảo vệ thành quả cách
mạng; bảo vệ nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, v.v.. Điều đó thể
hiện rõ sự quyết tâm của Đảng và nhân dân ta, của cả hệ thống chính trị trong
việc bảo vệ vùng trời, vùng đất, vùng biển, biên giới, hải đảo, thềm lục địa,
khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên; kiên quyết không để mất đất, mất đảo.
Đồng thời, giữ vững sự ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội, giữ vững môi trường hòa bình; bảo vệ được Đảng, Nhà nước và chế
độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong Chương 4, tại các Điều 64, 65 và 66
của bản Hiến pháp, Quốc hội đều nhấn mạnh việc củng cố và tăng cường nền quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân; trong đó 3 lần nhấn mạnh vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang
nhân dân. Điều 64 viết: “tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân
mà nòng cốt là lực lượng vũ trang
nhân dân” Điều 66 viết: “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý,
lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và
rộng khắp, làm nòng cốt trong thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng. Điều 67 viết: “Nhà nước xây dựng Công an nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”.
Khác với sự diễn đạt trước đây, trong bản Hiến pháp lần này, Quốc hội đã
tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân, đã đưa cụm từ “Nhân dân” xếp sau cụm từ
“Tổ quốc” và trước cụm từ “Đảng, Nhà nước”. Đồng thời, khi bàn về nhiệm vụ bảo
vệ đã xếp cụm từ: “bảo vệ Nhân dân”
trước cụm từ bảo vệ “Đảng, Nhà nước và
chế độ xã hội chủ nghĩa”. Có thể thấy rõ điều này qua Điều 65 của bản Hiến
pháp mới: “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước,
có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng
toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế (chữ in nghiêng là cụm
từ tác giả muốn nhấn mạnh).
Trong bản Hiến pháp 2013, Quốc hội bổ sung cụm từ mới và khẳng định rõ vai
trò của lực lượng vũ trang nhân dân là: “cùng toàn dân xây dựng đất nước và
thực hiện nghĩa vụ quốc tế”. Đây là cơ sở để lực lượng vũ trang nhân dân ta
(Quân đội nhân dân và Công an nhân dân) sẽ triển khai việc tham gia một số hoạt
động gìn giữ hòa bình, cứu hộ, cứu nạn nhân đạo, “góp phần bảo vệ hòa bình ở
khu vực và trên thế giới (Khoản 2, Điều 64). Tại Điều 68, lần đầu tiên, Quốc
hội đưa vào Hiến pháp, Điều 68, việc quan tâm, chăm lo “giáo dục quốc phòng và
an ninh cho toàn dân”. Đồng thời, khẳng định, bên cạnh việc đẩy mạnh việc xây
dựng nền công nghiệp quốc phòng thì đồng thời, quan tâm xây dựng nền công
nghiệp an ninh nhân dân. Chủ trương đầu tư, phát triển công nghiệp quốc phòng
và công nghiệp an ninh nhân dân là nhằm “bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ
trang” vững mạnh toàn diện, tiến lên chính quy, từng bước hiện đại, phù hợp với
điều kiện nền kinh tế và khuyến khích sự phát triển khoa học công nghệ, kỹ
thuật quân sự và công an, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình
hình mới.
Cùng với các điểm mới nêu trên, trong Hiến pháp mới
2013, Quốc hội đã đưa vào cụm từ “kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh
tế với quốc phòng, an ninh”. Đây là kết quả của sự phát triển tư duy mới về bảo
vệ Tổ quốc, góp phần giải quyết tốt hơn mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; giữa phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh và ngược lại.
Ngoài 5 Điều nêu trong Chương 4 về bảo vệ Tổ quốc, trong Hiến pháp mới còn một
số Điều, khoản có nội dung mới, là kết quả Quốc hội tiếp thu ý kiến đóng góp
của nhân dân và đã đưa vào Hiến pháp năm 2013. Chẳng hạn: tại khoản 5, Điều 88
có viết Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn: “Thống lĩnh lực lượng vũ
trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, quyết định
phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc
hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm
Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; căn cứ vào nghị quyết của Quốc
hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố
tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra
lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn
cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được công bố, bãi
bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương” hoặc tại khoản 3,
Điều 96 viết về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ: quản lý “quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố
tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm
tính mạng, tài sản của Nhân dân”.
Việc hiểu đúng, nhận thức sâu sắc các
vấn đề nêu trên không những giúp chúng ta sống và làm theo Hiến pháp, phát luật
một cách nghiêm minh, có trật tự, kỷ cương mà còn góp phần đấu tranh chống lại
những nhận thức lệch lạc, những quan quan điểm sai trái, thì địch, phản động;
góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Là người Việt Nam
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tôi và các bạn chắc chắn sẽ biết cần phải làm
gì và làm như thế nào cho công việc hữu ích, tốt lành để góp phần đưa Hiến pháp
2013 sớm đi vào cuộc sống. Đó cũng là quyền lọi, niềm vinh dự, tự hào và nghĩa
vụ, trách nhiệm của chúng ta.
Rõ ràng là, vấn đề có tính nguyên tắc trong nhận
thức nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay là cần thấy rõ và hiểu đầy đủ, sâu sắc
hơn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xét trên cả hai mặt: tự nhiên - lịch sử và chính
trị - xã hội; mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt ấy. Trong đó, nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là bảo vệ Đảng, Nhà nước; bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa và hạnh phúc của nhân dân. Vì một lý do nào đó, vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản bị lung lay; hiệu lực quản lý của Nhà nước bị thu hẹp đều dẫn
đến nguy cơ đe dọa trực tiếp sự tồn vong, sự mất còn của chế độ xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng./.
[1]
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr.33.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét