Thứ Ba, 29 tháng 9, 2015

Phản bội Tổ Quốc là tội nặng nhất

Xây dựng chủ nghĩa xã hội quan hệ chặt chẽ với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa quy định tính tất yếu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định và đòi hỏi những chủ nhân của sự nghiệp ấy phải có nghĩa vụ, trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và nó đã được luật pháp hóa, thể hiện sâu sắc trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, tại Chương 4, từ Điều 64 đến Điều 68 của Chương 4: Bảo vệ Tổ quốc.
 Tổ quốc là một phạm trù lịch sử, gồm hai phương diện tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau, quy định và chế ước lẫn nhau, không thể tách rời nhau. Những yếu tố tự nhiên, địa bàn cư trú và hoạt động thực tiễn của cộng đồng dân cư cùng với quá trình đấu tranh sinh tồn, phát triển luôn gắn bó chặt chẽ với những yếu tố chính trị - xã hội và chế độ kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội được xây dựng trên nó. Bản chất của chế độ xã hội quy định tính chất, đặc điểm của tổ quốc trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Vì vậy, bảo vệ tổ quốc nói chung, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nói riêng tuy có khác nhau về không gian, thời gian nhưng đều giống nhau ở chỗ: là một quá trình thống nhất biện chứng giữa hai mặt bảo vệ: tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội và nội dung bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không nằm ngoài nhiệm vụ bảo vệ các nội dung thuộc hai mặt nêu trên.
 Xét về mặt tự nhiên - lịch sử,  bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ những giá trị văn hoá truyền thống; bảo vệ lợi ích của quốc gia, dân tộc.
 Xét về mặt chính trị - xã hội, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân, bảo vệ chế độ chính trị - xã hội mà giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ những thiết chế và hệ thống chính trị; quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ những quan hệ quốc tế xã hội chủ nghĩa mà giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã thiết lập, đang xây dựng và ngày càng làm cho các yếu tố của chủ nghĩa xã hội lớn dần lên và phát triển bền vững.
Địa vực, lãnh thổ sinh tồn của Việt Nam ngày nay không chỉ là vùng đất, vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo mà còn bao gồm lãnh hải, các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên… Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay không chỉ là truyền thống văn hóa đã hình thành từ lâu đời, mà còn là sự kế thừa, nối tiếp, phát triển, làm giàu có, sâu sắc hơn hệ giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại.
Có thể khẳng định rằng, Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một thực thể thống nhất về tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội, bao gồm toàn bộ các yếu tố địa lý, lãnh thổ, dân cư, các giá trị văn hoá - lịch sử, lợi ích kinh tế, quyền lực chính trị và chế độ xã hội chủ nghĩa. Cho nên, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chính là bảo vệ hai mặt thống nhất biện chúng: tự  nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội đã và đang kiến tạo nên Tổ quốc ta hiện nay và các nội dung mà chúng ta đang xây dựng.
Xuất phát từ lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn xác định đúng đắn mục tiêu, nhiệm vụ và phương thức bảo vệ Tổ quốc phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Các văn kiện, tài liệu của Đảng, đặc biệt là các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng từ năm 1986 đến nay đã thể hiện sâu sắc sự nhất quán về đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI của Đảng ngày càng phản ánh đầy đủ, chính xác các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh; thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: Bảo vệ vững chắc Tổ quốc làn bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ.
Ngoài việc khẳng định rõ sự nhất quán của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc về mặt tự nhiên - lịch sử là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, tức là bảo vệ vùng đất, vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo, thềm lục địa, khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên của đất nước mà các Đại hội Đảng trước đây đã khẳng định; Đại hội X nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc về mặt chính trị - xã hội là bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước.
Như vậy, xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong các văn kiện của mình, Đảng ta đều chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt của một vấn đề bảo vệ Tổ quốc là tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội. Hai mặt này có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung và quy định lẫn nhau nhằm một mục đích: “ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”.
 Qua thực tiễn đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta xác định rõ hơn mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ, trong mọi tình huống”[1].
Nhìn chung, nội hàm bảo vệ Tổ quốc mà Đại hội XI nêu ra cơ bản thống nhất với nội hàm bảo vệ Tổ quốc mà Đại hội X đã khẳng định. Tuy nhiên, xét về mặt tự nhiên - lịch sử, lần này, trong Văn kiện Đại hội XI, nội hàm bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng ta bổ sung cụm từ mới “giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời” nhằm nhấn mạnh và khẳng định rõ ràng hơn vai trò, nhiệm vụ bảo vệ biển đảo của Tổ quốc; điều đó hoàn toàn thống nhất với Chiến lược khai thác và bảo vệ biển đảo, thềm lục địa mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang khẩn trương triển khai, ra sức thực hiện. Xét về mặt chính trị - xã hội, ngoài mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc như đã nêu ở Văn kiện Đại hội X và các đại hội Đảng trước đó; lần này, trong Văn kiện Đại hội XI, xét về mặt chính trị - xã hội, nội hàm bảo vệ Tổ quốc còn được Đảng ta bổ sung thêm cụm từ: “sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu”. Đây là điểm mới, phản ánh rõ hơn quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Tại Hội Nghị Trung ương 8, khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta nhấn mạnh: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Vì vậy, mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều bị nghiêm trị. Bởi vì, đối với mỗi người dân Việt Nam yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc là thiêng liêng, là bất khả xâm phạm và bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Cho nên, công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với xây dựng và củng cố thế trận an ninh nhân dân vững mạnh; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường hòa bình để nhân dân an tâm sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng đất nước; phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Đó là niềm vinh dự, tự hào; là quyền lợi và nghĩa vụ chính đáng của mỗi công dân. Vì lẽ đó, tại khoản 2, Điều 44 của bản Hiến pháp mới viết: “Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất”.
Nét mới và là một trong những điểm độc đáo, đặc sắc của bản Hiến pháp 2013 nói chung, của Khoản 1, Điều 64, Chương 4 về bảo vệ Tổ quốc nói riêng là sự khẳng định rõ ràng, nhất quán quan điểm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta về việc: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân”. Giờ đây, trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta hiểu sâu sắc rằng, chủ thể bảo vệ Tổ quốc là toàn thể nhân dân ta, là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc không phải là chung chung, trừu tượng mà phải gắn liền với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là sự tác động biện chứng giữa bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, tức là bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc gắn chặt với bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân và bảo vệ thành quả cách mạng; bảo vệ nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, v.v.. Điều đó thể hiện rõ sự quyết tâm của Đảng và nhân dân ta, của cả hệ thống chính trị trong việc bảo vệ vùng trời, vùng đất, vùng biển, biên giới, hải đảo, thềm lục địa, khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên; kiên quyết không để mất đất, mất đảo.
Đồng thời, giữ vững sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững môi trường hòa bình; bảo vệ được Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong Chương 4, tại các Điều 64, 65 và 66 của bản Hiến pháp, Quốc hội đều nhấn mạnh việc củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; trong đó 3 lần nhấn mạnh vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân. Điều 64 viết: “tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân” Điều 66 viết: “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Điều  67 viết: “Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”.
Khác với sự diễn đạt trước đây, trong bản Hiến pháp lần này, Quốc hội đã tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân, đã đưa cụm từ “Nhân dân” xếp sau cụm từ “Tổ quốc” và trước cụm từ “Đảng, Nhà nước”. Đồng thời, khi bàn về nhiệm vụ bảo vệ đã xếp cụm từ: “bảo vệ Nhân dân” trước cụm từ bảo vệ “Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Có thể thấy rõ điều này qua Điều 65 của bản Hiến pháp mới: “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế (chữ in nghiêng là cụm từ tác giả muốn nhấn mạnh).
Trong bản Hiến pháp 2013, Quốc hội bổ sung cụm từ mới và khẳng định rõ vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân là: “cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”. Đây là cơ sở để lực lượng vũ trang nhân dân ta (Quân đội nhân dân và Công an nhân dân) sẽ triển khai việc tham gia một số hoạt động gìn giữ hòa bình, cứu hộ, cứu nạn nhân đạo, “góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới (Khoản 2, Điều 64). Tại Điều 68, lần đầu tiên, Quốc hội đưa vào Hiến pháp, Điều 68, việc quan tâm, chăm lo “giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân”. Đồng thời, khẳng định, bên cạnh việc đẩy mạnh việc xây dựng nền công nghiệp quốc phòng thì đồng thời, quan tâm xây dựng nền công nghiệp an ninh nhân dân. Chủ trương đầu tư, phát triển công nghiệp quốc phòng và công nghiệp an ninh nhân dân là nhằm “bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang” vững mạnh toàn diện, tiến lên chính quy, từng bước hiện đại, phù hợp với điều kiện nền kinh tế và khuyến khích sự phát triển khoa học công nghệ, kỹ thuật quân sự và công an, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.
Cùng với các điểm mới nêu trên, trong Hiến pháp mới 2013, Quốc hội đã đưa vào cụm từ “kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh”. Đây là kết quả của sự phát triển tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, góp phần giải quyết tốt hơn mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh và ngược lại. Ngoài 5 Điều nêu trong Chương 4 về bảo vệ Tổ quốc, trong Hiến pháp mới còn một số Điều, khoản có nội dung mới, là kết quả Quốc hội tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân và đã đưa vào Hiến pháp năm 2013. Chẳng hạn: tại khoản 5, Điều 88 có viết Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn: “Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương” hoặc tại khoản 3, Điều 96 viết về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ: quản lý “quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân”.
Việc hiểu đúng, nhận thức sâu sắc các vấn đề nêu trên không những giúp chúng ta sống và làm theo Hiến pháp, phát luật một cách nghiêm minh, có trật tự, kỷ cương mà còn góp phần đấu tranh chống lại những nhận thức lệch lạc, những quan quan điểm sai trái, thì địch, phản động; góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Là người Việt Nam yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tôi và các bạn chắc chắn sẽ biết cần phải làm gì và làm như thế nào cho công việc hữu ích, tốt lành để góp phần đưa Hiến pháp 2013 sớm đi vào cuộc sống. Đó cũng là quyền lọi, niềm vinh dự, tự hào và nghĩa vụ, trách nhiệm của chúng ta.
Rõ ràng là, vấn đề có tính nguyên tắc trong nhận thức nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay là cần thấy rõ và hiểu đầy đủ, sâu sắc hơn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xét trên cả hai mặt: tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội; mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt ấy. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là bảo vệ Đảng, Nhà nước; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và hạnh phúc của nhân dân. Vì một lý do nào đó, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản bị lung lay; hiệu lực quản lý của Nhà nước bị thu hẹp đều dẫn đến nguy cơ đe dọa trực tiếp sự tồn vong, sự mất còn của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng./.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr.33.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét