Quan
niệm của Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là
một đóng góp lý luận quan trọng vào phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về
nhà nước và pháp luật. Nội hàm của luận điểm trên bao hàm cả hai mệnh đề cơ bản
sau:
Nhà nước pháp quyền do nhân dân lao động là
chủ và do nhân dân lao động làm chủ. Ngay từ những ngày đầu Nhà nước mới thành lập, Hồ
Chí Minh đã khẳng định: Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân
Việt Nam. “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Nói tóm
lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[1]. Mệnh đề “dân là chủ Nhà nước” được Hồ Chí Minh sử dụng nhiều lần,
rất có chủ đích; tiêu biểu là cách diễn đạt sau đây: “Nước ta là nước dân chủ,
địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ...”[2]; “Trong Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân...”[3]; “Chế độ của ta là chế độ dân
chủ. Nhân dân là chủ...”[4]; “Nhà nước ta ngày nay là của
tất cả những người lao động”[5]. Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh “Nhà nước là Nhà nước do nhân
dân lao động là chủ” hàm chứa trong đó hai hạt nhân lý luận đặc sắc:
Thứ nhất, bản chất dân chủ của Nhà nước thể
hiện trước hết ở vị thế của người dân trong Nhà nước. Định nghĩa “dân chủ là
dân làm chủ” rất súc tích, ngắn gọn, nhưng có ý nghĩa khái quát cao, phản ánh
quá trình hình thành, phát triển tư tưởng tiến bộ của loài người trong vấn đề
dân chủ.
Thứ hai, xuất phát từ quan niệm truyền thống
có giá trị phổ quát, xác định rõ dân là gốc của nước. Vì thế, tính chất dân chủ
là đặc trưng nổi bật của chính quyền nhà nước kiểu mới; khẳng định nguồn gốc,
sức mạnh và chủ thể quyền lực nhà nước là ở nhân dân lao động. Trong nhà nước
dân chủ, nhân dân là người có địa vị cao nhất. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã nhiều lần
khẳng định: “Trong bầu trời không gì quí bằng nhân dân”. Chỉ có nhân dân, do
địa vị tối cao của mình, mới có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất
của quốc gia dân tộc và đất nước; chỉ có nhân dân mới trở thành chỗ dựa vững
chắc của nhà nước. Tâm đắc với quan niệm của cha ông: “Lật thuyền là dân mà chở
thuyền cũng là dân” và quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin “quần chúng nhân dân
là động lực chủ yếu của mọi tiến trình lịch sử”, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân
nghĩa là nhân dân... Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân”[6]. Hồ Chí Minh thấy rất rõ vai
trò của Nhà nước và sức mạnh của lực lượng nhân dân trong mối quan hệ giữa nhân
dân và Nhà nước. Người cho rằng: “nếu không có nhân dân thì Chính phủ không có
lực lượng, nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên,
Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối”[7].
Nhà
nước phải dựa vào nhân dân, sức mạnh của nhà nước bắt nguồn từ sức mạnh của
nhân dân, của quần chúng lao động - đó là nguyên tắc quan trọng nhất trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước. Chân lý đó được Hồ Chí Minh khẳng định và diễn
đạt một cách hết sức đơn giản nhưng sâu sắc: Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu
thắng lợi trên nền nhân dân.
Sự
thành bại của cách mạng, sức mạnh của Nhà nước đều gắn với vai trò của quần
chúng nhân dân lao động. Trên thực tế lực lượng của nhân dân rất lớn, khả năng
của nhân dân là phi thường. Trong mọi vấn đề cách mạng, nếu có dân là có tất
cả, ngược lại, không có dân thì thất bại là đương nhiên.
Nhận
thức rõ vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng
một nhà nước do dân mà nội dung cốt lõi của nó là:
-
Nhà nước tin dân, thấy được rằng mọi lực lượng ở nơi dân, “chính quyền từ xã
đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ
chức nên”[8];
-
Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân;
-
Nhân dân phải tham gia vào công việc của nhà nước;
-
Mọi việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân. Do đó phải phát huy vai trò
của Mặt trận, các đoàn thể, các hội quần chúng trong công tác quản lý nhà nước
và xã hội. Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất
định phải dựa vào lực lượng của dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân;
-
Dân tự làm, tự lo thông qua các mối quan hệ trong xã hội, qua các đoàn thể, các
hội quần chúng, chứ không phải nhà nước bao cấp, lo thay cho dân. Chức năng của
nhà nước là quản lý, điều hành xã hội ở cấp vĩ mô;
-
Nhà nước tin dân, dân tin nhà nước. Nhà nước tin dân, dân tin nhà nước thì việc
gì cũng làm được, “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong”.
Nguyên
tắc “quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ nhà nước không chỉ
quy định nguồn gốc quyền lực, nguồn gốc sức mạnh của nhà nước, xác định rõ vị
thế của nhân dân mà còn giúp giải quyết một vấn đề rất cơ bản, quan trọng và
phức tạp là quan hệ giữa người dân với nhà nước, giữa công dân với người cầm
quyền.
-
Dân là chủ, còn cán bộ công chức, người cầm quyền chỉ là người được ủy quyền,
là công bộc của dân, thay mặt dân giải quyết các công việc chung của đất nước.
Hồ Chí Minh lưu ý rằng, xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân phải theo đúng
phương châm: “... Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến làng, đều là
công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè
đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”[9].
Để
giải thích rõ mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, Hồ Chí Minh tự đặt câu hỏi
“Chính phủ cộng hòa dân chủ là gì?” và trả lời: “là đầy tớ chung của dân, từ
Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ là đầy tớ. Làm việc ngày
nay không phải là để thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có
quyền đuổi Chính phủ. Nhưng dân dùng đầy tớ làm việc cho mình, thì phải giúp đỡ
Chính phủ. Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là
chửi”[10]. Hoặc “Nước ta là nước dân
chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người
quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều là sự phân công làm đầy tớ cho dân”[11]. Hoặc “Chế độ của ta là chế
độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đầy tớ của nhân dân”[12]. Ngay cả chức Chủ tịch nước
mà Hồ Chí Minh đảm nhiệm cũng được Người nhận thức rất rõ trên tinh thần dân
chủ.
Theo
Hồ Chí Minh, để quan hệ của dân với Nhà nước, người cầm quyền - công bộc có thể
thực hiện được theo đúng nghĩa của nó, cần có các điều kiện: Đối với dân, khi
trao quyền, ủy quyền cho Nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước thì tin cậy, tin
tưởng, phải cho họ có thực quyền thì mới thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của
mình, mới làm lựi cho dân, trừ hại cho quần chúng;
Đối
với cán bộ, công chức, người cầm quyền, muốn làm tròn bổn phận “công bộc” của
dân thì phải làm thế nào để dân tin, dân phục, dân yêu. Muốn vậy, phải biết gần
dân, sát dân, hiểu dân, thương dân, biết sử dụng sức mạnh của dân. Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, quyền làm chủ nhà nước của nhân dân có nội dung rất rộng với
một cơ chế thực hiện nghiêm ngặt và được cụ thể hóa trong các điều khoản luật.
Trước hết, nhân dân làm chủ nhà nước thông qua
việc tổ chức, xây dựng nên các cơ quan nhà nước bằng con đường tổng tuyển cử
phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Với tư cách là một nội dung làm
chủ nhà nước của nhân dân, quyền bầu cử được ghi rõ trong Hiến pháp năm 1946 và
Hiến pháp năm 1959 do Hồ Chí Minh chỉ đạo soạn thảo và ban hành.
Trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của nhân dân không chỉ thể hiện ở việc
bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp mà còn ở quyền bãi miễn họ, kiểm
soát, giám sát hoạt động của các đại biểu. Trong quá trình xây dựng và củng cố
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không
xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân đối với Nhà nước”[13]. Theo Người, để nhân dân lao
động làm chủ nhà nước thì đại biểu do dân bầu ra phải có mối liên hệ thường
xuyên, bằng nhiều “kênh” khác nhau với nhân dân; thoát ly khỏi mối liên hệ này,
Nhà nước rất dễ rơi vào quan liêu, trì trệ, đứng trên đầu nhân dân, trái với
bản chất dân chủ đích thực vốn có của nhà nước kiểu mới.
Trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân, do nhân dân làm chủ còn bao hàm một nội
dung quan trọng khác, đó là nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước. Hồ Chí Minh
viết: “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là phụng sự
cho lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm
soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành tận
tụy của nhân dân”[14].
Nét
độc đáo, đặc sắc của Hồ Chí Minh là ở chỗ quan niệm nghĩa vụ công dân không chỉ
trên tinh thần luật pháp, mà cả trên bình diện đạo đức, nhân cách người công
dân. Người chỉ rõ: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm
chủ. Nhân dân có quyền làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công
dân, giữ đúng đạo đức công dân…”[15].
Ý thức làm chủ, thực hiện nghĩa
vụ làm chủ phải trở thành hành động tự giác, thấm sâu vào mỗi người, trong từng
công việc cụ thể, hàng ngày. Hồ Chí Minh lưu ý rằng: “Đã là người chủ Nhà nước
thì phải chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà. Người công nhân phải yêu quý
máy móc như yêu quý con mình, người nông dân yêu quý trâu bò của hợp tác xã như
bạn thân của mình. Mọi người phải biết giữ gìn của công, phải chăm lo việc tập
thể như chăm lo việc gia đình. Đã là người chủ thì phải biết tự lo toan, gánh
vác, không ỷ lại, không ngồi chờ. Mọi người phải ra sức góp công, góp của để
xây dựng nước nhà. Chớ nên “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”[16].
Tóm lại, theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, nhà nước của dân, do dân và vì dân là nhà nước dân chủ, thể hiện
quyền lực của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là bảo đảm thực thi quyền lực
của nhân dân lao động. Quan điểm này của Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
tất cả các quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam.
Các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và năm 2013 đều thể hiện điều đó.
Trong công cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân thì các nội dung làm cho nhân dân lao động là
chủ và nhân dân lao động thực sự làm chủ phải là nội dung trọng yếu của việc
kiện toàn, đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước ta, là đặc trưng tổng quát
của mô hình cấu trúc xã hội chủ nghĩa theo quan niệm của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Vì vậy, xây dựng một nhà nước pháp quyền như thế phải là nhà nước toàn tâm
toàn ý phục vụ quyền lợi chính đáng, thiêng liêng của nhân dân. Hãy suy ngẫm
triết lý nhân sinh sâu sắc của Hồ Chí Minh: “Trong bầu trời không gì quý bằng
nhân dân”[17]
và “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”[18],
“Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm”[19]...
“Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của nhân dân”[20].
Chúng ta là con cháu của Người, không có lý gì lại không ra sức học tập và thực
hiện cho tốt lời dạy chí tình, chí nghĩa, chí lý ấy./.
[1] Hồ
Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000,
tr.698.
[2] Hồ
Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000,
tr.515.
[3] Hồ
Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000,
tr.217.
[4] Hồ
Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000,
tr.368, 500.
[5] Hồ
Chí Minh, Toàn tập, tập10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 310.
[6] Hồ
Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.
276.
[7] Hồ
Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.
56.
[8] Hồ
Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 698.
[9] Hồ
Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.
56.
[10]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.
60.
[11]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.
515.
[12]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.
368.
[13]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.
591.
[14]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.
361.
[15]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 542.
[16]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.
310.
[17]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 698.
[18]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 66.
[19]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 47.
[20]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 278.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét