Thứ Năm, 9 tháng 4, 2015

Những quan điểm đầu tiên về xây dựng và phát triển lực lượng dân quân tự vệ Việt Nam

1. Lịch sử hình thành và phát triển của Dân quân Tự vệ Việt Nam gắn liền với lịch sử cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vì cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Cột mốc đánh dấu khởi điểm của sự ra đời ấy lại là “Nghị quyết về Đội Tự vệ”, tháng 3 năm 1935.
Ngay từ khi ra đời (3/2/1930), Đảng ta đã quán triệt sâu sắc học thuyết Mác - Lênin về bạo lực cách mạng của giai cấp vô sản. Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng đã khẳng định con đường đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng dân tộc là dùng bạo lực cách mạng để giành chính quyền và yêu cầu phải tổ chức lực lượng vũ trang để làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành đấu tranh cách mạng. Trong Chính cương vắn tắt, Sách lược văn tắt của Đảng (2/1930) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh khởi thảo, đã đề cập đến việc “tổ chức ra quân đội công - nông”. Luận cương Chính trị của Đảng (10/1930) cũng chỉ rõ nhiệm vụ: “Vũ trang cho công nông”, “lập quân đội công nông” và “tổ chức ra đội tự vệ công nông”. Trong phong trào cách mạng 1930-1931, mà đỉnh cao là Xô Viết - Nghệ Tĩnh, từ lực lượng khởi nghĩa của công nông, Đội tự vệ công nông (Tự vệ Đỏ) đã ra đời. Đó là mầm mống đầu tiên của lực lượng Dân quân Tự vệ Việt Nam nói riêng, và cũng là mầm mống của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam nói chung. Sự ra đời của Đội Du kích Bắc Sơn, Du kích nam Kỳ (1940), Cứu Quốc quân (1941), Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân (1944), v.v., đã nói lên điều đó.
Trước nạn khủng bố trắng vô cùng dã man, tàn khốc của thực dân Pháp và bè lũ tay sai, phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát triển nhanh, mạnh và lan rộng ra khắp các vùng miền của đất nước. Nhờ đó, nhân dân ta đã kịp thời ngăn chặn bàn tay đẫm máu, đầy tội ác của quân xâm lược và bè lũ tay sai; tự bảo vệ mình, cứu được giống nòi và gấp rút chuẩn bị lực lượng cho cách mạng để khi thời cơ đến thì tiến hành tổng bạo động vũ trang đòi lại chính quyền, giành độc lập, tự do cho dân tộc; đem lại cơm no, áo ấm cho đồng bào... Đảng ta đã xác định đây là những công việc cần kíp, cần làm ngay khi tình hình biến động ở xứ Đông Dương và thế giới đang đến gần, ngày càng có lợi cho ta.
Nhằm tổng kết những kinh nghiệm đã qua, kịp thời chỉ đạo về tổ chức, lãnh đạo và hoạt động của các đội vũ trang cách mạng, ngày 28 tháng 3 năm 1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng được tổ chức tại Ma Cao (Trung Quốc). Tại Đại hội này, Đảng ta đã thông qua “Nghị quyết về Đội tự vệ”. Nghị quyết xác định: “Công nông Tự vệ phân biệt với Du kích đội, nó cũng không phải là Hồng quân; Hồng quân, Du kích đội không phải bao giờ muốn tổ chức thì tổ chức được ngay, còn Đội Tự vệ hễ có cách mạng vận động dù yếu mấy cũng có thể là cần phải tổ chức ngay; tự vệ đội càng mạnh tức là có điều kiện thuận tiện để sau này tổ chức du kích chiến tranh, võ trang bạo động, Hồng quân”[1]. Nghị quyết Đội Tự vệ là bước ngoặc quan trọng trong chỉ đạo tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng và là hình thức đấu tranh chống kẻ thù xâm lược của Đảng ta; đánh dấu sự tự tin, vững vàng về quan điểm, lập trường mácxít - lêninnít của Đảng ta ngay từ lúc bấy giờ. Nghị quyết đã phân tích, đánh giá đúng tình hình thời cuộc và chỉ ra rằng, “Vấn đề đội tự vệ là một vấn đề hiện tại cần phải giải quyết ngay”; toàn Đảng phải để tâm làm công việc hệ trọng ấy. Vì vậy, Nghị quyết khẳng định: “Công nông cách mạng Tự vệ đội tổ chức ra mục đích để:
a) Ủng hộ quần chúng hằng ngày;
b) Ủng hộ quần chúng trong các cuộc đấu tranh;
c) Ủng hộ các cơ quan cách mạng và chiến sĩ cách mạng của công nông;
d) Quân sự huấn luyện cho lao động cách mạng. Chống quân thù giai cấp tấn công và làm cho vận động cách mạng phát triển thắng lợi”[2].
Ngày 28 tháng 3 năm 1935 đã đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng như một mốc son tươi thắm - Ngày “Nghị quyết về Đội Tự vệ” ra đời, được coi là ngày thành lập Dân quân Tự vệ và ngày này, đã được công nhận là Ngày Truyền thống của Lực lượng Dân quân Tự vệ Việt Nam.
2. Nghị quyết về Đội Tự vệ đã xác định rõ bản chất giai cấp, bản chất cách mạng của một tổ chức có tính chất nửa quân sự của quần chúng nhân dân lao động, chủ yếu là của công nông, lấy “sản nghiệp và làng hay xã làm cơ sở tổ chức” để thực hiện sứ mệnh của cách mạng giao. Đội Tự vệ phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, sự ra đời, phát triển, trưởng thành của nó phải gắn liền với phong trào đấu tranh cách mạng của quảng đại quần chúng nhân dân. Thành phần tham gia các Đội Tự vệ là những người lao động nhiệt tình, cương quyết, không phân biệt gái, trai, hoặc dân tộc, từ 18 tuổi trở lên, có lòng yêu nước, thương nòi, có sức khỏe tốt đều có thể tham gia Đội Tự vệ công nông. Nghị quyết chỉ rõ: Ở làng, xã nào, nếu có từ 5 đến 9 người thì tổ chức thành một tiểu đội; mỗi tiểu đội có một người đội trưởng chỉ huy, tiểu đội lớn thì có một chánh, một phó đội trưởng. Theo đó, ở đâu có 3 tiểu đội thì thành lập một trung đội. Trung đội có một người chánh, một người phó trung đội trưởng và một người đại biểu của Đảng Cộng sản đứng bên cạnh để giúp người chỉ huy. Ba trung đội thì tổ chức thành một đại đội. Ngoài chánh, phó đại đội, rất khoát Đảng phải cử một đại biểu của Đảng Cộng sản để “chỉ huy”. Cứ theo phép “tam biểu” mà tổ chức lên cấp tiểu đoàn, trung đoàn và tập đoàn.
Trong Nghị quyết, Đảng ta xác định: Thời cơ đang đến gần, Đảng phải ra sức khếch trương công tác "phản đối binh bị", đồng thời, xúc tiến mọi mặt để chuẩn bị tổ chức ra quân đội của nhân dân. Trước mắt, Đảng cần tập trung lãnh đạo để tổ chức các đội tự vệ của công nông, phải làm cho các khẩu hiệu chống chiến tranh xâm lược của đế quốc chủ nghĩa và bọn tay sai lan nhanh ra khắp mọi miền đất nước và ăn sâu vào trong tâm trí quần chúng nhân dân. Có làm như vậy, quần chúng nhân dân mới hiểu rõ hơn tình thế cách mạng sắp đến và ra sức ủng hộ, giúp Đảng và các đoàn thể; nhờ đó mà chuyển chiến tranh đế quốc ra chiến tranh cách mạng, thực hiện thắng lợi mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp đang cấu kết với bọn việt gian, phản động, hại dân, hại nước; mới xóa bỏ được áp bức bóc lột, bất công; đem lại cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc cho đồng bào.
 Tôn chỉ, mục đích của Đảng ta thật rõ ràng, là lãnh đạo quần chúng nhân dân đánh đổ thực dân Pháp và tay sai, lấy các Đội Tự vệ làm nòng cốt để thực hiện vũ trang bạo động, giành lấy chính quyền về tay nhân dân; xây dựng cuộc sống mới theo gương cách mạng tháng Mười Nga. Vì vậy, dù còn khó khăn, gian khổ, nhưng ý chí quyết tâm của Đảng là chuẩn bị tốt nhất các điều kiện để sớm tổ chức bộ quân sự của Đảng. Có như vậy thì Đảng mới có thể thực hiện công tác huấn luyện quân sự cho đảng viên, các chiến sĩ của Đội Tự vệ và quần chúng nhân dân. Nhiệm vụ này hết sức cần kíp, không thể ngồi im chờ đợi thời cơ hoặc để tuột mất thời cơ khi nó đến. Trước mắt, Đảng cử những cán bộ ưu tú thuộc thành phần cốt cán, đặc biệt trung kiên, tin cậy; có hiểu biết chính trị và tinh thông tác chiến vũ trang để giúp cho công nông hội tổ chức các Đội Tự vệ. Ban đầu thì những Đội Tự vệ này sống trong dân, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nhân dân, sau này đủ sức thì có thể tách ra thành các đội vũ trang cách mạng, họat động tương đối độc lập; nhưng ở hình thức nào thì công việc chính vẫn là ra sức chăm lo công việc đoàn thể, chuyên trách đảm nhiệm công tác quân sự, bảo mật, trừ gian, giữ vững sự ổn định chính trị, trật an toàn ở địa phương, “no hay đói”, “sống hay chết” đều gắn bó chặt chẽ với quần chúng nhân dân, với từng địa bàn. Qua hoạt động thực tế, từng bước tích lũy kinh nghiệm, siêng năng học tập, rèn luyện sẽ lớn dần lên; cho đến khi huấn luyện quân sự vững vàng thì sẽ mở rộng phạm vi hoạt động, lấy liên thôn, liên xã làm điạ bàn, lấy đồn địch để tiến tới, uy hiếp, bao vây, tiêu diệt chúng; lấy công tác đấu tranh bảo vệ cuộc sống an bình của gia đình, làng xóm làm lẽ sống, niềm vui. Đến khi có điều kiện thì liên kết các Đội Tự vệ giữa các tổng, các làng để hợp lực, tạo nên sức mạnh để chống lại sự xâm lấn, vơ vét, “giết người, cướp của” mà lũ quân xâm lược và tay sai gây nên; khi thời cơ đến thì quyết đánh, tiêu diệt chúng. 
Về chính trị, Nghị quyết Đội Tự vệ xác định: luôn luôn phải giữ vững tính chất cách mạng của Đội Tự vệ; bất luận trong hoàn cảnh nào đều “phải giữ quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong Đội Tự vệ”. Kỷ luật của Đội Tự vệ tuy không phải là kỷ luật nhà binh, song hết sức nghiêm khắc. Đội viên phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh; phải giữ bí mật; tiểu đội nào biết tiểu đội ấy; không để lộ, lọt thông tin, bí mật quân sự. Để Đội Tự vệ mau chóng phát triển, trưởng thành, cần triệt để lợi dụng khí thế tiến công và sự bành trướng của phong trào cộng sản trong Đông Dương để đẩy mạnh công tác tuyên truyền quần chúng nhân dân; làm cho họ tăng thêm lòng căm thù bọn thực dân, phong kiến, tay sai tàn bạo, độc ác. Và đó cũng là cánh tốt nhất để làm cho quần chúng nhân dân thức tỉnh, mau đứng về phía cách mạng, ra sức ủng hộ Đảng và cách mạng; tích cực tham gia các Đội Tự vệ và các đoàn thể do Đảng tổ chức để hợp lực chống kẻ thù giai cấp. Đảng phải làm cho càng ngày càng đông quần chúng biết rõ mục đích của Đảng và ý kiến của Đảng đối với các việc quan trọng diễn ra hàng ngày là đều vì lợi ích của nhân dân. Muốn được như thế thì Đảng phải mở rộng việc tuyên truyền cổ động; phải làm cho mỗi đội viên Đội Tự vệ nhìn thấy, hiểu biết, chăm lo công việc ấy như công việc của mỗi người và theo đó, các đội viên Đội Tự vệ sẽ thi đua với nhau để lập thành tích; thế chiến thắng sẽ thuộc về chúng ta. Đó là một điều chắc chắn, là niềm tin sắt đá để đi đến thắng lợi. Không thế lực thù địch nào có thể ngăn đường, cản bước chúng ta đi tới.
Muốn vậy, Đảng phải phát huy vai trò của từng cán bộ, đảng viên; tận dụng tốt công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng, các đội viện của Đội Tự vệ, kể cả dùng biện pháp nói mồm (tuyên truyền miệng), dùng sách, báo, truyền đơn, mở lớp, thực hành diễn thuyết, v.v., ngay từ trong gia đình, họ hàng, làng tổng của mình. Tài liệu huấn luyện, tuyên truyền phải viết cho ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu và in cho sạch sẽ, có sức thuyết phục để mọi người dân đều có thể hiểu và làm được công việc cách mạng. Đây là công việc chính yếu của Đảng vì nó không chỉ làm cho Đảng ngày càng thêm mạnh nhờ củng cố khối đoàn kết toàn dân mà quan trọng hơn, đây là “bước thực hành của Đảng” để tiến tới rút kinh nghiệm lãnh đạo công tác quân sự của Đảng, chuẩn bị cho thành lập các tổ chức vũ trang cách mạng nay mai.
Trong Nghị quyết này, Đảng còn chỉ rõ: bất luận như thế nào, dù thuận lợi hay gặp phải tình cảnh khó khăn, mọi cán bộ, đảng viên của Đảng đều phải xung kích đi đầu, có trách nhiệm lớn lao là phải ra sức vận động trong các sản nghiệp, làng tổng và các đoàn thể của thợ thuyền, dân chúng, làm cho ảnh hưởng của Đảng, của các Đội tự vệ ngày càng lan rộng và mạnh hơn trước. Khi có những cuộc tranh đấu xảy ra, thì Đảng phải can thiệp vào ngay để động viên, cỗ vũ các Đội Tự vệ. Sau mỗi lần như vậy, cần nghiêm túc rút kinh nghiệm  để tổ chức tốt hơn những cuộc tranh đấu lần sau sắp tới.
Để nâng cao thanh thế, uy lực của các Đội tự vệ công nông, Đảng cử cán bộ ưu tú của Đảng tham gia giữ các chức vụ uỷ viên để Đội tự vệ luôn đi đúng đường lối. Các ủy viên này có trách nhiệm giáo dục, thuyết phục, lôi kéo quần chúng tốt đứng về phía Đảng, từng bước giao trách nhiệm của tổ chức, đoàn thể cho người đội trưởng, đội phó để trong từng Đội Tự vệ, tính đảng nâng cao dần. Đến khi, đủ sức thì, trong từng Đội Tự vệ có thể thành lập chi bộ Đảng để làm hạt nhân gây dựng phong trào và phát triển sức mạnh quân sự; làm cho các làng, tổng, thôn xã thành các “pháo đài vững chắc” để bảo vệ sự bình yên của quê hương; tạo điều kiện thuận lợi để dân chúng an tâm đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tích cực góp phần mình ủng hộ cách mạng, kiên quyết đòi lại độc lập, tự do, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi nhà.
Một trong những quan điểm quan trọng mà Nghị quyết khẳng định là tổ chức các Đội Tự vệ tại chỗ, thành viên của đội là từ thành phần dân chúng, được chọn lựa trong những người con ưu tú của quê hương, là đoàn viên hay đảng viên, để họ vừa tham gia sản xuất, tạo ra của cải nuôi sống gia đình và bản thân mình; đồng thời, tạo ra một phần của cải dôi dư, có dự trữ để cung cấp nhu yếu phẩm cho đoàn thể khi cao trào cách mạng lan rộng ra; vừa cải tiến, chế biến vũ khí, trang bị quân sự để bảo vệ dân làng; sẵn sàng chiến đấu khi tình huống xảy ra và khi cần thiết, có thể bổ sung cho quân đội cách mạng; biết phối hợp chiến đấu để giành được thắng lợi. Mỗi đội viên dân quân tự vệ là một hạt nhân, giữ vai trò nòng cốt để xây dựng phong trào toàn dân đánh giặc tại địa phương và tích cực tham gia các đội du kích, quân đội của Đảng khi điều kiện chín muồi, kể cả tham gia cướp chính quyền về tay nhân dân.
Chủ trương của Đảng là phải làm cho các Đội Tự vệ không ngừng lớn mạnh bằng chính thực lực của dân chúng. Muốn vậy thì phải tranh thủ được sự giúp đỡ tối đa của dân chúng, nhất là làm cho dân chúng hiểu rõ ý thức đề cao cảnh giác, biết tự vệ, phòng vệ, trừ gian. Và như vậy, Đảng cho rằng, khi cuộc tranh đấu lan rộng thì nhất thiết Đảng phải đề ra được khẩu hiệu chính trị làm phương châm chỉ đạo hành động. Nghị quyết cho rằng, “Không có một sản nghiệp nào, một làng nào, có cơ sở của Đảng, của Đoàn, của các hội quần chúng cách mạng mà không có tổ chức Đội Tự vệ, đó là khẩu hiệu của chúng ta hiện nay”[3]. Phải làm cho mỗi người dân thấy rõ quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ đối với việc nhà, việc làng cũng như việc nước; tất cả đều quan trọng, nếu làm một công việc nào đó mà không tốt thì sẽ làm liện lụy, ảnh hưởng đến các công việc khác, nhất là những việc không có lợi cho cách mạng. Nghị quyết về Đội Tự vệ nhấn mạnh đến mối quan hệ gần gũi, thân ái giữ các thành viên Đội Tự vệ với Đảng, với quần chúng nhân dân. Để làm tốt điều này và nhiều điều khác, Đảng phải luôn coi trọng xây dựng Đội Tự vệ vững mạnh về chính trị, về tổ chức, biên chế, về hoạt động huấn luyện, trang bị vũ khí cho Đội Tự vệ công nông, lấy tiêu chuẩn phù hợp với thực tế làm thước đo sự phát triển của mỗi Đội Tự vệ.
Nhìn chung, với việc ra đời của Nghị quyết về Đội tự vệ, lần đầu tiên Đảng ta xây dựng được nguyên tắc xây dựng về chính trị cũng như xây dựng về quân sự của lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng một cách khá căn cơ, tương đối hệ thống và toàn diện; thể hiện rõ lập trường, quan điểm giai cấp công nhân trong xây dựng đội quân cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, cũng như xây dựng dựng lực lượng nửa vũ trang (bán vũ trang) cách mạng; trong đó đấu tranh chính trị giữ vị trí then chốt. Có thể coi những quan điểm này là nền móng vững chắc để từ đó, Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn quan điểm, đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng của Đảng trong các giai đoạn tiếp theo và sau này. Và Nghị quyết đánh dấu điểm xuất phát của phong trào cách mạng nước ta khi nó bước sang thời kỳ trực tiếp vận động giải phóng dân tộc và tiến tới chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền cách mạng về tay nhân dân.
3. Sau khi Nghị quyết về Đội tự vệ ra đời, nhất là trước khi cách mạng tháng Tám nổ ra, các đội tự vệ ở cả nông thôn và thành thị lần lượt ra đời, đóng vai trò làm nòng cốt cho quần chúng thực hiện vũ trang khởi nghĩa, tiến hành chiến tranh du kích, xây dựng và mở rộng các căn cứ địa, vùng giải phóng. Khi cách mạng tháng tám năm 1945 bùng nổ, lực lượng dân quân tự vệ đã cùng toàn dân thực hiện thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Từ đây, dân quân tự vệ trở thành lực lượng vũ trang hùng hậu của Nhà nước Việt Nam độc lập, là một trong ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân, là công cụ sắc bén để bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng vừa mới giành lại được.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng dân quân tự vệ phát triển rộng khắp cả nước. Mặc dù chỉ được trang bị bằng các loại vũ khí thô sơ, tự tạo là chủ yếu, lại phải đương đầu với quân đội thực dân, đế quốc được trang bị vũ khí tối tân hiện đại, lực lượng dân quân tự vệ đã cùng nhân dân xây dựng làng xã chiến đấu, góp phần cùng bộ đội chủ lực tiến hành nhiều chiến dịch lớn, giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng dân quân tự vệ miền Bắc đã bắn rơi nhiều máy bay địch, bắt sống nhiều phi công Mỹ, tiêu diệt hàng chục toán biệt kích, bắn chìm và bắn cháy nhiều tàu chiến địch. Đồng thời, tích cực phục vụ chiến đấu, chi viện sức người sức của cho chiến trường miền Nam; cùng bộ đội chủ lực và nhân dân miền Nam tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; thực hiện trọn vẹn “Di chúc” thiêng liêng của Bác Hồ. Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, lực lượng dân quân tự vệ đã được huy động tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới; trực tiếp chiến đấu, phối hợp và phục vụ bộ đội chiến đấu, góp phần quan trọng vào thắng lợi của các cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, Tây Bắc.
Ngày nay, lực lượng dân quân tự vệ được phát triển cả về chất lượng, số lượng, biên chế tổ chức, trang bị. Trong đó, tổ chức, biên chế ngày càng tinh gọn hơn nhưng chất lượng tổng hợp của dân quân tự vệ được nâng cao, đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Trải qua quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ đã tỏ rõ sự trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với nhân dân, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, luôn xứng đáng với lời khen ngợi của Bác Hồ kính yêu: Dân quân tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc, vô luận kẻ địch hung bạo thế nào hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã./.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, năm 1935, Nxb CTQG, H.2002, tr. 92.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, năm 1935, Nxb CTQG, H.2002, tr. 91.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, năm 1935, Nxb CTQG, H.2002, tr. 96.

Đổi mới và Chỉnh đốn - Quy luật tồn tại và phát triển của Đảng ta

Thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn là quy luật tồn tại, phát triển và là nhân tố quyết định giúp Đảng ta luôn đứng vững trước mọi phong ba, bão táp, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
1. Đổi mới là cái vốn có của mọi sự vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và trong tư duy. Theo Hồ Chí Minh, đổi mới là để thắng sức ỳ của thói quen, của tập quán cũ. Có đổi mới thì mới có tiến bộ và phát triển. Trong đội ngũ cán bộ ta, ai cũng cần phải đổi mới, vì nó là cách tốt nhất để tự ý thức về bản thân mình, quyết tâm thay đổi một phương thức sống đã tỏ ra kém hiệu quả, tạo lập một phương thức sống mới phù hợp hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sự phát triển.
Nhờ có đổi mới mà chúng ta từng bước loại bỏ được những gì kìm h•m, cản trở sự phát triển, tổ chức lại xã hội, xác lập cơ chế vận hành mới với một hệ thống đồng bộ các yếu tố vật chất, tinh thần, làm cho guồng máy của Đảng, của Nhà nước và xã hội vận hành nhịp nhàng, ăn khớp, hiệu quả hơn. Vì vậy, đổi mới là một quá trình biện chứng trong phát triển tư duy lý luận, nhận thức của Đảng ta. Trong quá trình tất yếu khách quan ấy, Đảng ý thức sâu sắc việc cần thiết phải sửa lại những nhận thức chưa đúng về “cái cũ” để hiểu nó đúng hơn, vận dụng nó sao cho thiết thực, hiệu quả hơn. Đồng thời, thông qua lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng phân tích, làm sâu sắc hơn những gì ngày hôm qua là đúng, nhưng trong bối cảnh tình hình mới nó không còn phù hợp thì cần bổ sung, phát triển nhận thức, nâng nó lên tầm cao mới thông qua việc tổng kết thực tiễn, khái quát, đúc kết các luận điểm mới, cung cấp cơ sở khoa học để hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh.
2. Trong 85 năm qua, toàn thể dân tộc Việt Nam luôn ý thức sâu sắc rằng, sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình, sáng tạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đó là niềm vinh dự, tự hào và cũng là trách nhiệm cao cả, thiêng liêng của Đảng trước vận mệnh của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Vì vậy, trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào, Đảng cũng đều quan tâm đến vấn đề xây dựng, chỉnh đốn, tự đổi mới, làm cho Đảng luôn ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Nhờ đó, Đảng ta từ lãnh đạo cách mạng trong điều kiện chưa có chính quyền đã trở thành Đảng cầm quyền; từ cầm quyền trên nửa nước đã cầm quyền trong cả nước; từ lãnh đạo nhân dân kháng chiến, chống chiến tranh xâm lược là chủ yếu đã vững vàng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước trong hòa bình.
Khác trước đây, để lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, Đảng phải thay đổi tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện nay. Đây là bước chuyển mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng, dù đó là bước chuyển vô cùng khó khăn, phức tạp, nhất là đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Tính tất yếu khách quan của thực tiễn công cuộc đổi mới  đất nước quy định sự cần thiết Đảng phải vươn lên ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền. Đó là việc nâng tầm cao trí tuệ, bản lĩnh, sự kiên định vững vàng về lập trường, tư tưởng; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên. Thực tế chỉ ra rằng, tầm của Đảng nói chung, của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng thể hiện rất rõ ở kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao, ở giá trị vật chất và tinh thần đem lại cho tập thể, cộng đồng và nhân dân. Sự tiến bộ, trưởng thành của mỗi tổ chức đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên là sự đóng góp thiết thực, hiệu quả nhất đối với việc nâng tầm cao uy trí, vị thế của một Đảng Cộng sản cầm quyền.
Trước đây, trong lãnh đạo nhân dân ta tiến hành kháng chiến, cứu nước, tầm của Đảng ta thể hiện rất rõ trong lãnh đạo nhân dân ta kiên quyết đấu tranh, giành thắng lợi, đem lại hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Ngày nay, yêu cầu nhiệm vụ mới đòi hỏi tầm của Đảng Cộng sản cầm quyền phải được nâng lên với trình độ mới cao hơn, trên cơ sở bổ sung, cập nhật thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng, bao hàm cả khoa học quản lý, khoa học tổ chức, khoa học lãnh đạo và khoa học, nghệ thuật quân sự...
3. Hiện nay, việc nâng tầm của Đảng cần tiếp tục kiên trì quan điểm đổi mới; trong đó, đổi mới tư duy vẫn là vấn đề trước tiên, mang ý nghĩa quyết định, chi phối việc đổi mới ở các lĩnh vực khác. Đảng cần tiếp tục đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; trọng tâm là đổi mới tư duy về lĩnh vực kinh tế. Đây là cơ sở nền tảng quy định sự tồn tại, phát triển của chế độ xã hội ta và nó đang là vấn đề thời sự nóng bỏng nhất, có ý nghĩa quyết định đưa nước ta thoát ra khỏi “cái bẫy” thu nhập trung bình, giữ vững sự ổn định tình hình đất nước, đồng thời là cơ sở để tìm ra mô hình cũng như con đường để đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay. Điều quan trọng là phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, cung cấp luận cứ, nội dung khoa học cho đổi mới tư duy, đúc kết, khái quát lý luận từ thực tiễn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới vừa qua do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Cùng với đổi mới tư duy, cần tiếp tục đổi mới về tổ chức để bộ máy của Đảng từ Trung ương đến cơ sở vận hành thông thoáng, tốt hơn, tránh được sự chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, tinh giảm được biên chế, nâng cao được hiệu lực, hiệu quả công tác. Thực hiện được điều đó thì công tác tổ chức của Đảng mới thích ứng, phù hợp với vai trò của một đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn lúc nào hết, Đảng đang cần có một đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất và năng lực, có tư duy đổi mới, có trình độ, khả năng thực hiện đổi mới, có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng; không suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Điều này chỉ có thể đạt được khi Đảng kiên quyết chống mọi biểu hiện lệch lạc như: “bệnh” quan liêu, tham nhũng, lãng phí; mất dân chủ, thành kiến, bè phái, cục bộ địa phương... Mỗi cán bộ, đảng viên cần coi đây là trách nhiệm của mình trước vận mệnh của Đảng, trước nhân dân, cần nghiêm túc tự đổi mới, điều chỉnh nhận thức và hành động sao cho phù hợp hơn với yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng trong điều kiện mới. Nếu đổi mới là từ bỏ những gì là lệch lạc, lỗi thời hay sai trái để đi đến những cái mới, đúng đắn hơn, tiến bộ hơn, thì chỉnh đốn Đảng là sắp xếp lại những cái vốn có trước kia đến nay vẫn đúng nhưng đã bị làm sai lệch để mọi công việc đi vào nền nếp, luôn phát huy tốt tác dụng. Từng tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức làm tốt điều ấy.
Đổi mới và chỉnh đốn Đảng là hai mặt của một vấn đề, có quan hệ biện chứng, không thể tách rời nhau trong quá trình xây dựng Đảng. “Chỉnh đốn là tiền đề cho đổi mới; đổi mới là để đem lại cho Đảng một chất lượng mới, một tầm cao mới, một bước phát triển mới, đáp ứng những yêu cầu của thời kỳ mới”[1]. Cần thấu triệt quan điểm: đổi mới, chỉnh đốn không phải để Đảng xa rời bản chất khoa học và cách mạng mà là giữ vững và tăng cường bản chất ấy; khẳng định rõ hơn mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; luôn kiên định, vững vàng những nguyên tắc mácxít - lêninnít; làm cho Đảng ta mãi mãi là một Đảng cách mạng chân chính, một Đảng do Bác Hồ sáng lập, tổ chức, giáo dục và rèn luyện nên; luôn xứng đáng với sự tin yêu, kính trọng, sự tôn vinh và tên gọi thân thương của nhân dân: “Đảng ta”.
Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng ta. Trước sau như một, Đảng ta đều nhất quán khẳng định: Sứ mệnh của Đảng là lãnh đạo nhân dân thực hiện cho được mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Để đảm đương được vai trò của mình, Đảng ta luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn; ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của mình. Đó là công việc hệ trọng của Đảng, không ai có thể làm thay và nó đã và đang là vấn đề tự ý thức, sự giác ngộ sâu sắc vai trò, sứ mệnh của Đảng ta. Sự nêu gương trong việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng thông qua tự phê bình và phê bình của cấp trên có ý nghĩa to lớn đối với việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng của các cấp bên dưới. Và ngược lại, kết quả xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng thông qua tự phê bình và phê bình của các cấp bên dưới lại thúc đẩy việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng của các cấp bên trên. Mối quan hệ, tác động biện chứng ấy là vấn đề có tính quy luật trong công tác xây dựng Đảng ta trước đây cũng như hiện nay và mai sau.
Đảng tự đổi mới, tự chỉnh đốn không chỉ tiến hành một lần trong một thời gian ngắn là xong, là đủ, mà là việc thường xuyên và lâu dài. Điều đó là do công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc càng được đẩy mạnh, càng đi vào chiều sâu thì nhiều vấn đề mới lại nảy sinh, luôn đặt ra đòi hỏi Đảng phải nhận thức và có lời giải đáp nhanh và chính xác để thực hiện tốt nhất vai trò lãnh đạo của mình. Đồng thời, Đảng phải vượt lên phía trước để không bị rơi vào tình trạng bất cập, lạc hậu với thời cuộc. Mặt khác, Đảng phải kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và sử dụng tốt “vũ khí” đấu tranh tự phê bình và phê bình để nhìn nhận rõ thành tựu, khuyết điểm, hạn chế, chỉ ra sai lầm trong công tác lãnh đạo và đề ra chủ trương, biện pháp khả thi để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, sai lầm trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng.


[1] Nguyễn Phú Trọng, Đổi mới và phát triển ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 346.