Thứ Ba, 29 tháng 9, 2015

Phản bội Tổ Quốc là tội nặng nhất

Xây dựng chủ nghĩa xã hội quan hệ chặt chẽ với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa quy định tính tất yếu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định và đòi hỏi những chủ nhân của sự nghiệp ấy phải có nghĩa vụ, trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và nó đã được luật pháp hóa, thể hiện sâu sắc trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, tại Chương 4, từ Điều 64 đến Điều 68 của Chương 4: Bảo vệ Tổ quốc.
 Tổ quốc là một phạm trù lịch sử, gồm hai phương diện tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau, quy định và chế ước lẫn nhau, không thể tách rời nhau. Những yếu tố tự nhiên, địa bàn cư trú và hoạt động thực tiễn của cộng đồng dân cư cùng với quá trình đấu tranh sinh tồn, phát triển luôn gắn bó chặt chẽ với những yếu tố chính trị - xã hội và chế độ kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội được xây dựng trên nó. Bản chất của chế độ xã hội quy định tính chất, đặc điểm của tổ quốc trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Vì vậy, bảo vệ tổ quốc nói chung, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nói riêng tuy có khác nhau về không gian, thời gian nhưng đều giống nhau ở chỗ: là một quá trình thống nhất biện chứng giữa hai mặt bảo vệ: tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội và nội dung bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không nằm ngoài nhiệm vụ bảo vệ các nội dung thuộc hai mặt nêu trên.
 Xét về mặt tự nhiên - lịch sử,  bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ những giá trị văn hoá truyền thống; bảo vệ lợi ích của quốc gia, dân tộc.
 Xét về mặt chính trị - xã hội, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân, bảo vệ chế độ chính trị - xã hội mà giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ những thiết chế và hệ thống chính trị; quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ những quan hệ quốc tế xã hội chủ nghĩa mà giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã thiết lập, đang xây dựng và ngày càng làm cho các yếu tố của chủ nghĩa xã hội lớn dần lên và phát triển bền vững.
Địa vực, lãnh thổ sinh tồn của Việt Nam ngày nay không chỉ là vùng đất, vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo mà còn bao gồm lãnh hải, các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên… Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay không chỉ là truyền thống văn hóa đã hình thành từ lâu đời, mà còn là sự kế thừa, nối tiếp, phát triển, làm giàu có, sâu sắc hơn hệ giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại.
Có thể khẳng định rằng, Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một thực thể thống nhất về tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội, bao gồm toàn bộ các yếu tố địa lý, lãnh thổ, dân cư, các giá trị văn hoá - lịch sử, lợi ích kinh tế, quyền lực chính trị và chế độ xã hội chủ nghĩa. Cho nên, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chính là bảo vệ hai mặt thống nhất biện chúng: tự  nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội đã và đang kiến tạo nên Tổ quốc ta hiện nay và các nội dung mà chúng ta đang xây dựng.
Xuất phát từ lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn xác định đúng đắn mục tiêu, nhiệm vụ và phương thức bảo vệ Tổ quốc phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Các văn kiện, tài liệu của Đảng, đặc biệt là các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng từ năm 1986 đến nay đã thể hiện sâu sắc sự nhất quán về đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI của Đảng ngày càng phản ánh đầy đủ, chính xác các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh; thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: Bảo vệ vững chắc Tổ quốc làn bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ.
Ngoài việc khẳng định rõ sự nhất quán của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc về mặt tự nhiên - lịch sử là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, tức là bảo vệ vùng đất, vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo, thềm lục địa, khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên của đất nước mà các Đại hội Đảng trước đây đã khẳng định; Đại hội X nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc về mặt chính trị - xã hội là bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước.
Như vậy, xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong các văn kiện của mình, Đảng ta đều chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt của một vấn đề bảo vệ Tổ quốc là tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội. Hai mặt này có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung và quy định lẫn nhau nhằm một mục đích: “ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”.
 Qua thực tiễn đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta xác định rõ hơn mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ, trong mọi tình huống”[1].
Nhìn chung, nội hàm bảo vệ Tổ quốc mà Đại hội XI nêu ra cơ bản thống nhất với nội hàm bảo vệ Tổ quốc mà Đại hội X đã khẳng định. Tuy nhiên, xét về mặt tự nhiên - lịch sử, lần này, trong Văn kiện Đại hội XI, nội hàm bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng ta bổ sung cụm từ mới “giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời” nhằm nhấn mạnh và khẳng định rõ ràng hơn vai trò, nhiệm vụ bảo vệ biển đảo của Tổ quốc; điều đó hoàn toàn thống nhất với Chiến lược khai thác và bảo vệ biển đảo, thềm lục địa mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang khẩn trương triển khai, ra sức thực hiện. Xét về mặt chính trị - xã hội, ngoài mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc như đã nêu ở Văn kiện Đại hội X và các đại hội Đảng trước đó; lần này, trong Văn kiện Đại hội XI, xét về mặt chính trị - xã hội, nội hàm bảo vệ Tổ quốc còn được Đảng ta bổ sung thêm cụm từ: “sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu”. Đây là điểm mới, phản ánh rõ hơn quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Tại Hội Nghị Trung ương 8, khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta nhấn mạnh: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Vì vậy, mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều bị nghiêm trị. Bởi vì, đối với mỗi người dân Việt Nam yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc là thiêng liêng, là bất khả xâm phạm và bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Cho nên, công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với xây dựng và củng cố thế trận an ninh nhân dân vững mạnh; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường hòa bình để nhân dân an tâm sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng đất nước; phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Đó là niềm vinh dự, tự hào; là quyền lợi và nghĩa vụ chính đáng của mỗi công dân. Vì lẽ đó, tại khoản 2, Điều 44 của bản Hiến pháp mới viết: “Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất”.
Nét mới và là một trong những điểm độc đáo, đặc sắc của bản Hiến pháp 2013 nói chung, của Khoản 1, Điều 64, Chương 4 về bảo vệ Tổ quốc nói riêng là sự khẳng định rõ ràng, nhất quán quan điểm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta về việc: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân”. Giờ đây, trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta hiểu sâu sắc rằng, chủ thể bảo vệ Tổ quốc là toàn thể nhân dân ta, là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc không phải là chung chung, trừu tượng mà phải gắn liền với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là sự tác động biện chứng giữa bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, tức là bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc gắn chặt với bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân và bảo vệ thành quả cách mạng; bảo vệ nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, v.v.. Điều đó thể hiện rõ sự quyết tâm của Đảng và nhân dân ta, của cả hệ thống chính trị trong việc bảo vệ vùng trời, vùng đất, vùng biển, biên giới, hải đảo, thềm lục địa, khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên; kiên quyết không để mất đất, mất đảo.
Đồng thời, giữ vững sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững môi trường hòa bình; bảo vệ được Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong Chương 4, tại các Điều 64, 65 và 66 của bản Hiến pháp, Quốc hội đều nhấn mạnh việc củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; trong đó 3 lần nhấn mạnh vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân. Điều 64 viết: “tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân” Điều 66 viết: “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Điều  67 viết: “Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”.
Khác với sự diễn đạt trước đây, trong bản Hiến pháp lần này, Quốc hội đã tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân, đã đưa cụm từ “Nhân dân” xếp sau cụm từ “Tổ quốc” và trước cụm từ “Đảng, Nhà nước”. Đồng thời, khi bàn về nhiệm vụ bảo vệ đã xếp cụm từ: “bảo vệ Nhân dân” trước cụm từ bảo vệ “Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Có thể thấy rõ điều này qua Điều 65 của bản Hiến pháp mới: “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế (chữ in nghiêng là cụm từ tác giả muốn nhấn mạnh).
Trong bản Hiến pháp 2013, Quốc hội bổ sung cụm từ mới và khẳng định rõ vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân là: “cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”. Đây là cơ sở để lực lượng vũ trang nhân dân ta (Quân đội nhân dân và Công an nhân dân) sẽ triển khai việc tham gia một số hoạt động gìn giữ hòa bình, cứu hộ, cứu nạn nhân đạo, “góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới (Khoản 2, Điều 64). Tại Điều 68, lần đầu tiên, Quốc hội đưa vào Hiến pháp, Điều 68, việc quan tâm, chăm lo “giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân”. Đồng thời, khẳng định, bên cạnh việc đẩy mạnh việc xây dựng nền công nghiệp quốc phòng thì đồng thời, quan tâm xây dựng nền công nghiệp an ninh nhân dân. Chủ trương đầu tư, phát triển công nghiệp quốc phòng và công nghiệp an ninh nhân dân là nhằm “bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang” vững mạnh toàn diện, tiến lên chính quy, từng bước hiện đại, phù hợp với điều kiện nền kinh tế và khuyến khích sự phát triển khoa học công nghệ, kỹ thuật quân sự và công an, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.
Cùng với các điểm mới nêu trên, trong Hiến pháp mới 2013, Quốc hội đã đưa vào cụm từ “kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh”. Đây là kết quả của sự phát triển tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, góp phần giải quyết tốt hơn mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh và ngược lại. Ngoài 5 Điều nêu trong Chương 4 về bảo vệ Tổ quốc, trong Hiến pháp mới còn một số Điều, khoản có nội dung mới, là kết quả Quốc hội tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân và đã đưa vào Hiến pháp năm 2013. Chẳng hạn: tại khoản 5, Điều 88 có viết Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn: “Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương” hoặc tại khoản 3, Điều 96 viết về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ: quản lý “quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân”.
Việc hiểu đúng, nhận thức sâu sắc các vấn đề nêu trên không những giúp chúng ta sống và làm theo Hiến pháp, phát luật một cách nghiêm minh, có trật tự, kỷ cương mà còn góp phần đấu tranh chống lại những nhận thức lệch lạc, những quan quan điểm sai trái, thì địch, phản động; góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Là người Việt Nam yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tôi và các bạn chắc chắn sẽ biết cần phải làm gì và làm như thế nào cho công việc hữu ích, tốt lành để góp phần đưa Hiến pháp 2013 sớm đi vào cuộc sống. Đó cũng là quyền lọi, niềm vinh dự, tự hào và nghĩa vụ, trách nhiệm của chúng ta.
Rõ ràng là, vấn đề có tính nguyên tắc trong nhận thức nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay là cần thấy rõ và hiểu đầy đủ, sâu sắc hơn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xét trên cả hai mặt: tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội; mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt ấy. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là bảo vệ Đảng, Nhà nước; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và hạnh phúc của nhân dân. Vì một lý do nào đó, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản bị lung lay; hiệu lực quản lý của Nhà nước bị thu hẹp đều dẫn đến nguy cơ đe dọa trực tiếp sự tồn vong, sự mất còn của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng./.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr.33.

Mất độc lập, tự chủ - còn gì là tự do, là tự đánh mất mình

Do nhận thức chưa đúng nên có người cho rằng, trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức mà Đảng ta lại chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là thiếu nhạy bén, không thức thời; là tự mâu thuẫn với đường lối đổi mới do Đảng vạch ra và lãnh đạo. Theo họ, thế giới đương đại là “một thế giới phẳng”, không còn rào cản, ngăn cách, cả thế giới là một cái chợ “vĩ đại”, hoàn toàn thống nhất; ai cần thứ gì thì mua thứ đó, thiếu tiền thì đi vay. Vì thế, không nhất thiết phải xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ? Phải chăng làm như thế, Đảng ta đã rơi vào bảo thủ, bị trói buộc bởi phương thức tư duy siêu hình, trực quan, máy móc và giáo điều, Đảng ta đã tự làm khó mình vì đã “bớt bạn, thêm thù”?
Luận đề nêu trên nghe qua không ít người cảm nhận là có lý, nhưng suy ngẫm sâu sắc và nhìn rõ hơn sự thật lịch sử, điều kiện, hoàn cảnh nước nhà thì thấy nó không có cơ sở khoa học vì nó quá giản đơn, phiến diện, một chiều. Ai cũng biết rõ, độc lập, tự chủ là một xu hướng phát triển của thế giới. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, người ta “bung ra làm ăn” dưới nhiều hình thức liên doanh, liên kết rất đa dạng, phức tạp nhưng không ai dại gì để tự đánh mất mình, bị lệ thuộc, theo đuôi người khác, bị người ta thâu tóm, quản thúc, biến thành nô lệ; mà ngược lại, từ các nhà tài phiệt quốc tế đến các quốc gia, dân tộc đều giữ thế chủ động, đề cao tính độc lập, tự chủ trong kinh tế và cả trong chính trị, xã hội và quân sự; không ai phụ thuộc ai, không bao giờ nhầm lẫn, bị đánh tráo khái niệm, lẫn lộn “xanh đỏ, trắng đen”. Đó là một vấn đề có tính nguyên tắc, đã và đang chỉ đạo các mối quan hệ, ứng xử trước đây cũng như hiện nay, dù thành văn hay chưa thành văn; song bất kể ai, giai cấp, lực lượng nào, trong các quan hệ quốc tế, đều phải nhận thức và thực hiện các hành vi sao cho “đúng mực”, cốt là không sai “luật” và “lệ” nhằm bảo vệ vững chắc lợi ích của quốc gia, dân tộc mình.
 Với lợi thế là một trong những nước đi sau so với những nước đã tham gia hội nhập quốc tế trước đó, chúng ta có thể “đi tắt”, “đón đầu”, bỏ qua một số khâu, đoạn để đi ngay vào hội nhập quốc tế; rút ngắn thời gian mò mẫm, thử nghiệm. Những bài học thành công, không thành công của một số nước là “liều thuốc thử vô cùng quý báu”, đã và đang giúp chúng ta tránh rơi vào bế tắc, sai lầm. Chúng ta xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối chính trị độc lập, tự chủ mà còn là đòi hỏi của thực tiễn khách quan là phải đảm bảo độc lập, tự chủ vững chắc về chính trị, coi đó là cái đảm bảo chắc chắn nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững khi chúng ta mở cửa, hội nhập quốc tế. Không thể nói rằng, chúng ta có độc lập, tự chủ về chính trị nhưng nền kinh tế của chúng ta lại phụ thuộc vào quốc gia, dân tộc khác, bị chi phối bởi các đối tác. Đây là một bài học kinh nghiệm “xương máu” mà một số nước tham gia hội nhập quốc tế trước ta đã mắc phải, chúng ta kiên quyết không đi lại lối mòn, lặp lại “điệp khúc” sai lầm mà người khác đã mắc phải.
 Thực tế chỉ ra rằng, nếu không xây dựng được một nền kinh tế độc lập, tự chủ thì đương nhiên, chúng ta sẽ bị lệ thuộc vào nước khác, sẽ bị các thế lực xấu, thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để lôi kéo, mua chuộc, hoặc khống chế, ép buộc chúng ta thay đổi chế độ chính trị, đi chệch quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội và nền độc lập, tự do giành lại được bằng xương máu của hàng triệu anh hùng, liệt sỹ đã hy sinh sẽ trở nên vô nghĩa. Cho nên, cần hiểu một cách biện chứng rằng, độc lập, tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất vững chắc nhất để bảo đảm cho độc lập, tự chủ về chính trị; không bao giờ có độc lập, tự chủ về chính trị nếu bị phụ thuộc về kinh tế, bị người khác chi phối, giật dây, sai khiến.
Xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ ở nước ta không có nghĩa là “đóng cửa”, chỉ chăm lo xây dựng một nền kinh tế tự cung, tự cấp, khép kín, không cần quan hệ với ai, tự ta “một mình một chợ”, tách biệt với thế giới bên ngoài cho “an toàn” như một số người đã suy nghĩ và kiến nghị với Đảng, Nhà nước. Trong bối cảnh hiện thời, làm như thế là chúng ta tự cô lập mình, là sự phòng vệ thụ động, tiêu cực, không chắc chắn, không hiệu quả. Một mặt, chúng ta không biết kế thừa, sử dụng những thành tựu, tinh hoa văn hóa, khoa học, công nghệ mà nhân lọai đã sáng tạo ra để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Mặt khác, chúng ta sẽ mãi mãi nằm trong thế bị kẹt, bị bao vây, cấm vận, phong tỏa do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch gây nên từ nhiều thập kỷ trước đó và chúng đang nuôi hy vọng tiếp tục thực hiện ở Việt Nam. Chúng ta đều biết rằng, cho đến tận ngày nay, chưa có nước nào tồn tại biệt lập mà có nền kinh tế năng động, phát triển bền vững, quốc gia, dân tộc đi đến phồn vinh, con người phát triển toàn diện, hạnh phúc. Bài học lịch sử và kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã tiếp thêm niềm tin, nghị lực, cho phép Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vững bước khai thông con đường mở cửa, hội nhập quốc tế để thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ở nước ta, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế không mâu thuẫn với nhau, nếu đứng trên lợi ích quốc gia, dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa để xem xét, luận bàn. Bởi lẽ, cả hai chủ trương - đối sách của Đảng, Nhà nước ta đều phục vụ một mục đích là lợi ích quốc gia, dân tộc và xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong phát triển kinh tế - xã hội thì nguồn nội lực bao giờ cũng mang ý nghĩa quyết định, các nguồn ngoại lực là quan trọng. Nếu kết hợp hài hòa hai nguồn nội lực và ngoại lực thì sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy nhanh quá trình phát triển và hiệu quả đạt được từ quá trình ấy sẽ vô cùng to lớn, nhưng nếu tách riêng từng lĩnh vực, từng nguồn lực thì công dụng, hiệu quả của từng lĩnh vực, từng nguồn lực sẽ rất thấp. Vì vậy, chỉ có thể tăng thêm sức mạnh cho nền kinh tế khi chúng ta kết hợp hài hòa các yếu tố nội lực và ngoại lực; làm cho các yếu tố nội lực, nhất là nguồn nhân lực, nguồn vật lực, tức là sản phẩm hàng hóa được nâng cấp, hiện đại hóa, có đủ sức cạnh tranh khi tham gia hội nhập, và ngược lại, các yếu tố ngoại lực, khi đã nằm trong tầm kiểm soát của chúng ta, chúng sẽ phát huy tác dụng, là tăng thêm sức sống cho nền kinh tế từ việc bổ sung kịp thời nguồn vốn, thông tin, các thành tựu khoa học, công nghệ, kinh nghiệm điều hành, quản lý để phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng, hiệu quả các sản phẩm hàng hóa tạo ra. Rõ ràng là, hai chủ trương - một đối sách mà Đảng, Nhà nước ta nêu trên không chỉ giống nhau về mục đích, con đường, bước đi mà còn tương đồng về điều kiện, giải pháp thực hiện nhằm tăng thêm sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, tăng sức nội sinh và sức đề kháng của nền kinh tế, giúp chúng ta tự tin, vững vàng tham gia hội nhập với tư cách là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Đối với nước ta, độc lập, tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là bảo đảm  chắc chắn định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ các giá trị văn hóa, bản sắc truyền thống dân tộc Việt Nam mà chúng ta đã chắt chiu, dành dụm từ hàng ngàn năm đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Vì vậy, ngay từ bây giờ, bằng sự khôn ngoan và tỉnh táo của mình, chúng ta hãy ra sức xây dựng và bảo vệ nền kinh tế độc lập, tự chủ, làm cho nó sinh sôi, nảy nở, đơm hoa, kết trái trên cơ sở phát huy tối đa mọi tiềm năng sẵn có. Trách nhiệm của mỗi công dân nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thực hiện tốt các yêu cầu, nguyên tắc cơ bản về phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Đương nhiên, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ là một quá trình khó khăn, phức tạp và lâu dài, chúng ta không vì mong muốn là có ngay được những điều cần có mà nóng vội, đốt cháy giai đoạn; làm sai quy trình, vi phạm cam kết, luật pháp quốc gia và quốc tế. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ở nước ta là một quá trình tự giác, nhất thiết phải kinh qua những bước đi tuần tự từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện với thái độ tích cực, chủ động, sáng tạo và có các chủ trương, chính sách, bước đi phù hợp, hiệu quả. Vì vậy, mỗi người cần nhận thức đúng việc tiếp thu, kế thừa và vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm về hội nhập quốc tế mà các nước hội nhập kinh tế quốc tế đã kinh qua cũng như nắm vững và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của thời cuộc vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đảng, Nhà nước ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là thực hiện chủ định tạo ra thời cơ, vận hội mới với các điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Và khi có được độc lập, tự chủ về kinh tế thì mới thật sự tự tin để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là điều căn bản nhất, cốt tử nhất trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, giữ vững chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc và đó cũng là đối sách mềm dẻo, năng động, sáng tạo để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020; góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức hiện nay.
 Có thể khẳng định rằng, những thành tựu, kinh nghiệm của gần 30 năm đổi mới đã tạo cho đất nước thế và lực mới, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước thời kỳ đổi mới. Những năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm, cấu trúc lại nền kinh tế để phát triển nhanh và bền vững; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tập trung xây dựng nông thôn mới; tinh giảm bộ máy nhà nước; thực hiện tốt hơn chính sách về đất đai; bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường; tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đây là nhân tố rất quan trọng củng cố và nâng cao niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bồi đắp ý chí quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vươn lên nắm bắt thời cơ, đẩy lùi thách thức, đưa đất nước phát triển mạnh mẽ và vững chắc trong những thập niên tới.
Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại; một số khuyết điểm, yếu kém về ổn định kinh tế vĩ mô, về đầu tư phát triển, nợ công, nợ xấu, thiếu điện, chính sách đất đai, văn hóa, xã hội...chưa thể khắc phục trong thời gian ngắn; hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, thực thi pháp luật chưa nghiêm. Tình trạng suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị - xã hội ở nước ta.
Tình hình và bối cảnh nêu trên sẽ tạo ra cả những thời cơ và thách thức mới, đan xen với nhau, có nhiều biến động phức tạp, công tác lý luận của Đảng cần thường xuyên theo dõi, dự báo để có chính sách phản ứng thích hợp nhằm tận dụng tốt thời cơ và đối phó có hiệu quả với những nguy cơ, thách thức trong quá trình phát triển đất nước từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030./.