Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014

ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN XÂM LƯỢC VIỆT NAM CỦA BỌN BÀNH TRƯỚNG TRUNG QUỐC



Sau khi chúng ta đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, không có kẻ thù nào dám đánh chúng ta; chỉ có những người nghĩ rằng, họ vẫn có thể đánh chúng ta và dám đánh chúng ta là những kẻ phản động theo tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc. Nhưng nhân dân Trung Quốc, hơn một tỷ người lại không nghĩ như thế và họ hoàn toàn không muốn như thế. Họ muốn yên ổn làm ăn, mong muốn có hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; không muốn con em của họ phải chết chóc vì chiến tranh. Hơn ai hết, nhân dân ta rất quý trọng hòa bình, mong muốn có hòa bình, được sống trong độc lập, tự do; ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới.
So với nhiều dân tộc khác, nhân dân ta đã chịu quá nhiều đau thương, tang tóc bởi hai cuộc chiến tranh hơn một trăm năm do thực dân Pháp và đế quốc Mỹ gây ra. Nhưng “cây muốn lặng mà gió chẳng muốn đừng”. Trong giới cầm quyền Trung Quốc, một bộ phận hiếu chiến, phản động, có tư tưởng bành trướng, có tham vọng làm bá chủ thế giới đã phớt lờ điều ấy; không thèm đếm xỉa đến nỗi đau của người khác, dân tộc khác. Họ ngấm ngầm chuẩn bị mọi mặt, chờ thời cơ để thực hiện “giấc mộng Trung Hoa” như một sản phẩm “độc chiêu” mang ý thức hệ “cha truyền con nối”. Họ không muốn để chúng ta yên; hoàn toàn không muốn chúng ta phát triển, lớn mạnh dưới sự “bảo trợ của Liên Xô” và các nước xã hội chủ nghĩa khác, đúng như những ngôn từ họ vẫn nói “dưới bầu trời này chỉ có người Trung Hoa là chủ, được quyền cai trị thế giới”. Điều đó cho thấy rằng, chừng nào còn tồn tại những kẻ phản động, bành trướng Trung Quốc thì chừng ấy, họ sẽ vẫn nuôi dưỡng và quyết tâm thực hiện mưu đồ thôn tính nước ta; từ chèn ép, áp đặt đến tấn công, lấn chiếm và tiến tới tước đoạt biển Đông cũng như đất liền của chúng ta.
Là một đất nước đất không rộng, người không đông, khoa học, kỹ thuật và công nghệ còn lạc hậu, kinh tế kém phát triển, nhưng nhân dân ta lại có một tài sản vô giá mà nước khác không có là lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc; không bao giờ chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù hung bạo nào, dù chúng có quân hùng, tướng mạnh, lắm tiền, nhiều của, vũ khí tối tân, hiện đại, tự xưng mình là có sứ mệnh đi “khai hóa văn minh”, “truyền bá tư tưởng nhân đạo” cho dân tộc khác. Lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm để dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh điều đó.
Vì vậy, khi thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên tấn công chúng ta ở Đà Nẵng, thì ngay lúc ấy, ông cha ta, không kể đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, đã dũng cảm đứng lên chống lại quân xâm lược và bè lũ tay sai, cứu nước, cứu nhà. Sau bao nhiêu năm “nếm mật nằm gai”, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân và quân đội ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Thế nhưng, đế quốc Mỹ đã hất cẳng Pháp, nhảy vào xâm lược nước ta và cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống quân xâm lược - tên đế quốc đầu sỏ đã kéo dài hơn 21 năm, làm cho gần 3 triệu chiến sĩ, đồng bào Việt Nam phải hy sinh, hàng vạn gia đình nhà tan, cửa nát.
Đất nước ta đã giành được độc lập, tự do bằng chính xương máu, nước mắt, mồ hôi và công sức của cả một dân tộc không sợ Mỹ, dám đánh Mỹ và biết thắng Mỹ. Điều này đã được cả thế giới thừa nhận: Trong thế giới hiện đại, chỉ có người Việt Nam là dám đấu tranh chống đế quốc Mỹ còn cả thế giới đều sợ Mỹ. Khi Trung Quốc giúp Bắc Triều Tiên bảo vệ sườn phía Bắc của họ và cuộc chiến này kết thúc, thắng lợi thuộc về phía Triều Tiên và những người “dang tay giúp họ” thì áp lực đặt lên Việt Nam. Những người có tư tưởng bành trướng trong giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã rất muốn Việt Nam chúng ta đi theo con đường của Triều Tiên, đứng hoàn toàn về phía họ, ủng hộ và tạo mọi điều kiện để họ “mở con đường xuống phía Nam”, làm bá chủ khu vực...
Những người có tư tưởng bành trướng trong giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã yêu cầu chúng ta chấp nhận để Trung Quốc “giúp chúng ta về mọi mặt”, kể cả trong kháng chiến và trong kiến quốc. Điều đó có nghĩa là, chúng ta phải cắt đứt mọi quan hệ với Liên Xô, không được nhận bất cứ thứ gì từ phía Liên Xô, kể cả viện trợ nhân đạo. Một trong những người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc có tư tưởng bành trướng đã nói thẳng thừng rằng, nếu Việt Nam tiếp tục theo Liên Xô để chống Mỹ thì sẽ phải tự lo liệu mọi thứ; Trung Quốc sẽ không giúp Việt Nam thêm một thứ gì nữa, kể từ sau khi Việt Nam đánh bại thực dân Pháp. Họ đã ra sức cản trở, gây áp lực đối với chúng ta để Việt Nam không thể chiến đấu chống Mỹ. Nếu chúng ta tiếp tục không “nghe lời khuyên” của họ, không chấp nhận sự “mặc cả” của họ thì họ “sẽ dạy cho chúng ta một bài học”.
Vào thời điểm chiến trường Điện Biên Phủ đi đến hồi kết, chúng ta chiến thắng như “chẻ tre”, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán, ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ để lập lại hòa bình ở Việt Nam, thì cũng chính vào thời điểm ấy, người đứng đầu Chính phủ Trung Quốc đã tạo cớ với nhiều lý do khác nhau, cố tình trì hoãn, làm khó cho chúng ta trong các lần đàm phán và chính con người này đã nêu quan điểm và đề nghị hội nghị các bên chia cắt đất nước ta làm hai phần Nam - Bắc. Một lần nữa, những người có tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc đã gây sức ép lên chúng ta, buộc chúng ta không được làm gì đối với miền Nam Việt Nam, dù biết nơi đó là máu thịt của chúng ta, là đồng bào, đồng chí ruột thịt của chúng ta. Giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc rất sợ Mỹ; không dám đụng đến Mỹ, dù họ luôn thừa nhận chính là họ là nước lớn, còn chúng ta chỉ là nước nhỏ, không thể đánh được Mỹ.
Khi chúng ta thực hiện chiến tranh du kích ở miền Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, đích danh người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã nói với các đồng chí trong Bộ Chính trị của chúng ta rằng, ngay lập tức, chúng ta phải chuyển hai tỉnh đã được Quân đội nhân dân Việt Nam giúp bạn giải phóng cho Chính phủ Viên Chăn, nếu không người Mỹ sẽ phẫn nộ, trả đũa, tiêu diệt hai tỉnh này; gây tổn hại đến Trung Quốc. Để bảo vệ bộ đội tình nguyện của chúng ta; ngay sau đó, Việt Nam đã phải làm việc với người Mỹ để giải quyết các vấn đề có liên quan đến sự kiện này. Người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc liên tục bức hiếp chúng ta bằng cách này, cách khác, buộc chúng ta phải làm các điều mà chúng ta không muốn làm; song đã buộc phải làm theo ý họ với hy vọng: tiếp tục giữ thế cân bằng trong quan hệ, làm những việc có lợi cho cách mạng Việt Nam; nhận được sự viện trợ của họ. Sau đó hai tỉnh này đã được chuyển giao cho Viên Chăn.
Tại cuộc gặp gỡ và làm việc với một số cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc thời đó, đồng chí Lê Duẩn đã đề nghị hãy để cho Lào được tiến hành chiến tranh du kích và một nhóm cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp đoàn cán bộ cao cấp của Việt nam đã đồng ý. Tuy nhiên, ngay sau đó, người đứng đầu tối cao của giới chóp bu ở Trung Quốc đã trì trích nhóm cán bộ cao cấp này vì đã chấp thuận đề nghị của chúng ta. Người đứng đầu tối cao Nhà nước Trung Quốc đã nói với chúng ta rằng, Việt Nam không được phát động chiến tranh du kích ở miền Nam để chống Mỹ vì Mỹ quá mạnh. Việt Nam phải nằm chờ trong một thời gian dài. Lúc đó, chúng ta buộc phải nghe theo giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc vì chúng ta rất nghèo, nếu không có Trung Quốc làm căn cứ, hậu thuẫn thì chúng ta không thể đánh Mỹ. Khi Ngô Đình Diệm kéo lê máy chém khắp miền Nam, gây nhiều tội ác cho đồng bào ta, buộc chúng ta phải đứng lên đấu tranh chống lại quân xâm lược và không “nghe lời Trung Quốc” thì họ đùng đùng nổi giận, đe dọa cắt đứt viện trợ cho chúng ta.
Một trong những nhân vật có uy tín trong giới cầm quyền có tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc đã nói với đồng chí Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng ta rằng: “Bây giờ sai lầm của đồng chí đã xảy ra rồi, đồng chí chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống”. Đó là áp lực mà giới cầm quyền chóp bu có tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc đặt lên chúng ta. Sau khi chúng ta chiến đấu hiệu quả, đột nhiên người đứng đầu tối cao của giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc lại có suy nghĩ mới: Vì Mỹ đánh Việt Nam, Trung Quốc sẽ đưa quân đội giúp chúng ta xây dựng đường sá. Mục tiêu chính của họ là tìm hiểu tình hình đất nước ta để sau này có thể tấn công chúng ta và mở rộng con đường xuống khu vực Đông Nam Á, độc chiếm biển Đông; ngoài ra không có lý do nào khác. Người đứng đầu tối cao của giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã ép chúng ta phải nhận 20.000 quân của ông ta để làm con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ nhưng Đảng, Nhà nước ta không chấp nhận vì biết rõ âm mưu, thủ đoạn muốn áp đặt sự thống trị của họ lên đất nước chúng ta; muốn ăn cướp nước ta từ lâu và đó là cơ hội để họ thực hiện âm mưu độc ác ấy, nếu chúng ta đồng ý, ngoan ngoãn làm theo ý họ sẽ mắc mưu của họ.
Sau khi đế quốc Mỹ đưa hàng trăm ngàn quân vào miền nam Việt Nam, chúng ta buộc phải phát động cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào Tết Mậu Thân năm 1968 để buộc Mỹ giảm leo thang, chặn đường chúng đánh phá ra miền Bắc. Nếu chúng ta không làm cho Mỹ giảm leo thang từng bước thì chúng ta sẽ thất bại vì lúc đó, chúng ta chưa đủ sức mạnh đẻ đánh lại chúng, tiêu diệt kẻ thù, giải phóng đất nước. Tuy đã phải trả giá đắt, song đế quốc Mỹ đã run sợ chúng ta, tình thế đã buộc đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán với chúng ta. Trong hoàn cảnh đó, Đại sứ Trung Quốc Hô Wei đã viết thư gửi đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và yêu cầu: Chúng ta không thể ngồi vào bàn đàm phán với Hoa Kỳ. Chúng ta phải để quân Mỹ vào miền Bắc Việt Nam và đánh nhau với Mỹ. Vì sao lại có câu chuyện ấy? Bởi vì, người Mỹ đã “móc ngoặc”, “thỏa thuận ngầm” với giới cầm quyền tối cao có tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc về những lợi ích mà họ sẽ được hưởng sau khi bọn bành trướng Trung Quốc nắm được quyền thống trị chúng ta một cách hoàn toàn.
Nhận rõ bản chất cuộc “mua bán” giữa hai bên Mỹ - Trung, chúng ta đã không làm theo yêu cầu của phía nào. Chúng ta tự quyết định con đường đi của riêng mình, vẫn quyết tâm “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”. Vì vậy, người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã nổi cơn thịnh nộ, ông ta đã thông báo cho phía Mỹ: “Nếu các ông không tấn công tôi, tôi sẽ không tấn công các ông; do đó, các ông có thể đưa bao nhiêu quân lính vào Việt Nam là tùy theo ý muốn của các ông”.
Người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã trao đổi nhiều điều “bí mật” với Mỹ và ép buộc chúng ta ngày càng trắng trợn, nhất là sau khi chúng ta giành thế chủ động trên chiến trường miền Nam. Lúc đó, người Mỹ nhận ra rằng, họ đã thua trận, ngay lập tức, họ đã sử dụng Trung Quốc như một “con bài che chắn” để tạo điều kiện rút quân “nhanh, gọn” ra khỏi miền Nam Việt Nam; không để quân Mỹ lún sâu vào sa lầy ở nước ta. Ních sơn và Kissingger đã đến Trung Quốc để thảo luận về vấn đề này. Mục đích của họ là giảm bớt thất bại của Mỹ ở Việt Nam và lôi kéo Trung Quốc đứng về phía Mỹ, chống Việt Nam và Liên Xô, các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Ngay sau đó, Thủ tướng Chính phủ Trung Quốc đã nói với đồng chí Lê Duẩn rằng, Việt Nam phải nghe theo ý kiến của Trung Quốc vì tình hình rất căng thẳng, ngặt nghèo. Nếu người Mỹ tức giận, có thể họ sẽ ném bom nguyên tử ở Việt Nam. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến Trung Quốc.
Thực hư còn nhiều điều chưa rõ nhưng chúng ta đã cân nhắc kỹ lưỡng và thẳng thừng bác bỏ điều ấy. Chúng ta đã quyết tâm đánh Mỹ, không hề run sợ trước sự đe dọa, khủng bố tinh thần rất hung hăng từ phía những người theo chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc. Chúng ta đã quyết tâm “dù có phải đốt cháy cả dẫy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập”. Mỗi cố gắng của quân và dân ta là để khắc phục sai lầm của người đứng đầu Chính phủ Trung Quốc vì đã chia cắt đất nước ta thành hai miền Nam Bắc tại Hội nghị Giơ-ne-vơ. Sau cuộc gặp gỡ giữa Ních sơn và Kissingger với giới cầm quyền chóp bu có tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc, Mỹ đã ráo riết tấn công chúng ta. Trong hoàn cảnh đó, người đứng đầu Chính phủ Trung Quốc đã mặc cả với đồng chí Lê Duẩn: nếu chúng ta đánh Mỹ thì Trung Quốc sẽ gửi thêm súng đạn, lương thực, thực phẩm cho Việt Nam. Tính hai mặt của Trung Quốc đã quá rõ ràng. Mọi động thái của giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đều muốn chúng ta suy yếu, nếu chúng ta muốn tồn tại thì buộc phải cầu xin họ giúp đỡ, từng bước phụ thuộc hoàn toàn vào họ, đi đến làm nô lện cho họ.
Nhìn lại lịch sử hiện đại cho thấy, nếu Liên Xô và Trung Quốc không có mâu thuẫn với nhau thì Mỹ đã không thể tấn công, xâm lược nước ta. Để chống Mỹ, chúng ta phải dựa vào Trung Quốc và các nước khác nhiều thứ. Lúc đó, hàng năm, nhân dân Trung Quốc đã cung cấp, viện trợ cho chúng ta khoảng 500 nghìn tấn lương thực, súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa kể đến viện trợ đôla. Phải thừa nhận rằng, nếu không có viện trợ ấy thì chúng ta sẽ vô cùng khó khăn. Để có được điều đó, mỗi năm Đảng ta phải cử vài đoàn cán bộ cấp cao đi Trung Quốc để thương thuyết với họ; nhờ họ tiếp tục viện trợ cho chúng ta đánh Mỹ. Trung Quốc đã ra điều kiện và gây áp lực cho chúng ta, buộc chúng ta phải xa lánh Liên Xô, cấm chúng ta không được đi với Liên Xô. Người đứng đứng đầu Chính phủ Trung Quốc thời đó đã nói với đồng chí Lê Duẩn: “Trung Quốc sẽ giúp đồng chí vài tỉ mỗi năm; đồng chí không thể nhận bất cứ thứ gì từ Liên Xô”. Đảng, Nhà nước ta đã không đồng ý điều đó vì muốn thắt chặt tình đoàn kết gắn bó giữa các nước xã hội chủ nghĩa; mong muốn Liên Xô, Trung Quốc - hai nước xã hội chủ nghĩa không mất đoàn kết, cùng giúp chúng ta đánh Mỹ.
Năm 1963, người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu có tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc đã gặp đồng chí Bí thư Trung ương Đảng ta và tuyên bố “Tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á”. Đặng Tiểu Bình cùng tiếp Đoàn cán bộ cao cấp của Đảng ta cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ yếu là vì nông dân nghèo trong tình cảnh khó khăn cùng cực”. Ngay sau đó, đồng chí Lê Duẩn đã nói với đồng chí Trường Chinh: “Anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á bây giờ đã rõ rồi”.
Người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã hỏi đồng chí Lê Duẩn: Lào có bao nhiêu cây số vuông đất? Đồng chí Lê Duẩn trả lời: khoảng 200 cây số vuông, Ông ta lại hỏi dân số của họ bao nhiêu? Khoảng 3 triệu. Đồng chí Lê Duẩn trả lời. Ông ta nói ngay rằng, như vậy là không nhiều. Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà. Ông ta lại hỏi có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan? Khoảng 5 trăm nghìn cây số vuông. Đồng chí Lê Duẩn trả lời. Ông ta lại hỏi có bao nhiêu người? Khoảng 40 triệu. Lúc đó, ông ta nói ngay rằng, tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500 nghìn cây số vuông nhưng có tới 90 triệu người, tôi cũng sẽ đưa một số người dân tôi tới Thái Lan. Ông ta muốn chiếm Lào, Thái Lan, đồng thời muốn chiếm tất cả các nước Đông Nam Á và đưa người dân của họ đến sống ở đó.
Quan điểm này của người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc bộc lộ rõ từ năm 1963. Để đối phó với Mỹ, trong giới cầm quyền và nhân dân Trung Quốc cũng có nhiều loại ý kiến khác nhau, Thủ tướng Trung Quốc muốn thành lập mặt trận liên minh với Liên Xô để chống Mỹ vì hai nước này đã có một hiệp ước hữu nghị từ tháng 2 năm 1950 nhưng quan điểm ấy đã bị người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc bác bỏ. Phải nói rằng, người kiên quyết nhất ra sức truyền bá, bảo vệ quan điểm bành chướng và cũng là người có tinh thần Đại Hán, muốn chiếm Đông Nam Á, chiếm đoạt biển Đông của chúng ta chính là người đứng đầu Trung Quốc. Tất cả các chính sách của Trung Quốc nhằm mở con đường xuống phía Nam đều do ông ta định ra. Khi chúng ta giải phóng miền Nam, một số cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc có đến chúc mừng chúng ta. Vì lý do này, họ bị quy kết là theo chủ nghĩa xét lại. Để chứng minh là mình không theo chủ nghĩa xét lại, số cán bộ này đã quay ngược 180 độ để tấn công Việt Nam một cách dữ dội và quyết liệt. Chiến tranh Biên giới Tây Nam và chiến tranh Biên giới Tây Bắc đều nằm trong sự tính toán ấy.
Sau khi đánh bại đế quốc Mỹ, chúng ta giữ lại hơn 1 triệu quân, các đồng chí lãnh đạo Liên Xô có hỏi chúng ta tại sao Việt Nam lại giữ lại một đội quân thường trực lớn như vậy. Đồng chí Lê Duẩn đã trả lời: Có lý do chính đáng, sau này các đồng chí sẽ hiểu. Lý do đó là gì? Là do mối đe dọa trực tiếp, rất nguy hiểm của giới cầm quyền phản động Trung Quốc theo chủ nghĩa bành trướng, kiên quyết chống đối Việt Nam, muốn thôn tính Việt Nam; muốn biến Việt Nam thành quận, huyện của họ.
Trong quá khứ, Việt Nam đã không sợ Mỹ và Trung Quốc. Trong hiện tại, Việt Nam vẫn không sợ Mỹ và không hề sợ bọn phản động bành trướng Trung Quốc. Giới cầm quyền phản động bành trướng ở Trung Quốc luôn ở thế phòng thủ và sợ chiến tranh, ngay cả 400 triệu người dân Trung Quốc đã không đọ sức nổi đội quân Nhật có 300 nghìn người. Khi bọn bành trướng Trung Quốc mang hàng trăm ngàn quân vào xâm lược nước ta năm 1979, chúng ta không ở thế thủ; kiên quyết chống trả họ, buộc họ phải lùi bước. Chỉ có chúng ta mới có thể làm được điều đó, còn Trung Quốc thì không thể, ngay cả khi họ lợi dụng tình hình thế giới, khu vực có nhiều bất ổn, rối ren, đã ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam; chúng không hề sợ họ, đã kiên quyết chống lại những kẻ xâm lược, bành trướng; kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Hiện nay, chúng ta chiến đấu chống quân bành trướng Trung Quốc về việc độc chiếm biển Đông dù còn nhiều khó khăn nhưng chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng. Nếu giới cầm quyền phản động ở Trung Quốc và phái tài phiệt ở Nga dù có thống nhất với nhau hoặc Trung Quốc và Mỹ “móc ngoặc với nhau”, cũng vẫn vậy. Chúng ta sẽ biết cách tự bảo vệ mình bằng chính lòng yêu nước, yêu Tổ quốc và sự dũng cảm, gan dạ và sáng tạo của chúng ta. Có thể sự cấu kết của các nước lớn vì lợi ích của họ ít nhiều sẽ gây tổn hại cho đất nước ta nhưng bài học lịch sử đã chứng minh rằng, chúng ta quyết tâm chống quân xâm lược đến cùng; biết đánh và biết thắng chúng trong mọi tình uống, dù đó là kẻ thù xâm lược nào. Việt Nam kiên quyết không để quân xâm lược bành trướng Trung Quốc thực hiện “giác mơ Trung Hoa”, độc chiếm biển Đông, không để chúng mượn đường mở rộng xuống phía Nam xâm lược các nước Đông Nam Á. Việc giới cầm quyền phản động theo chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc xâm lấn, muốn độc chiếm biển Đông không có gì là bất ngờ, mà là một tất yếu, thể hiện rõ âm mưu, thủ đoạn đen tối của họ là muốn làm bá chủ khu vực, tiến tới làm bá chủ thế giới, gạt Mỹ ra khỏi địa hạt châu Á - Thái Bình Dương, Đông Nam Á, từ nhiều năm nay. Điều đó là quá rõ ràng.
Vì vậy, chúng ta phải chuẩn bị cuộc chiến lâu dài, phải nhìn nhận cho rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của bọn bành trướng, phản động Trung Quốc: muốn độc chiếm biển Đông, chiếm đất và đưa người của họ xuống sống ở các nước Đông Nam Á; đồng thời, chế ngự sự phản công, “xoay trục của Mỹ”, vì lợi ích của họ; gây khó dễ cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước đây chúng ta đã không sợ Mỹ, không sợ bọn bành trướng xâm lược đến từ Trung Quốc thì nay, chúng ta quyết không sợ chúng. Cả thế giới sẽ ủng hộ chúng ta vì chúng ta đứng về phía chính nghĩa; chúng ta bị đe dọa, bị các nước lớn cậy thế ăn hiếp, bắt nạt. Chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục có phương cách đúng đắn, sáng tạo để đánh thắng quân xâm lược dù là nước ta còn nghèo. Vì vậy, để chống lại quân xâm lược bành trướng Trung Quốc, chúng ta không chỉ biết có chiến đấu mà phải biết làm cho chúng ta mạnh hơn nữa. Quân với dân một ý chí; toàn dân, toàn quân đoàn kết chặt chẽ bên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nhà nước ta để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 Hiện nay, âm mưu, thủ đoạn của giới cầm quyền chóp bu phản động, bành trướng ở Trung Quốc đã hiện nguyên hình, lộ rõ thông qua cuộc chiến tranh biên giới phía Nam, phía Bắc năm 1979 và hạ đặt giàn khoan HD 981 trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Chúng ta đồng tâm, nhất trí, kiên quyết chống bè lũ phản động Bắc Kinh, bọn bành trướng xâm lược đến từ Trung Quốc và các nước khác; chúng ta không chống nhân dân Trung Quốc và tha thiết muốn đoàn kết với họ, với nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới vì lẽ phải, công lý để chống lại mọi bất công, bất bình đẳng; bảo vệ hòa bình, độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.
 Vì vậy, chúng ta hãy kiểm soát tình hình chặt chẽ, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và không bao giờ lơi lỏng sự cảnh giác trước bất cứ âm mưu, thủ đoạn vô cùng thâm hiểm của quân xâm lược. Đối với chúng ta, Tổ quốc là thiêng liêng, bất khả xâm phạm./

SỨC MẠNH CHÍNH TRỊ - TINH THẦN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM - CẦN NHẬN THỨC ĐÚNG ĐỂ CHỐNG QUAN ĐIỂM SAI



Trong lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám là một trong những mốc son chói lọi nhất, trang sử vàng vẻ vang nhất của dân tộc Việt Nam. Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, lần đầu tiên, một dân tộc thuộc địa nửa phong kiến là Việt Nam: đất không rộng, người không đông, nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu đã “đồng tâm, hiệp sức, một lòng”, quyết đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược; đã đập tan ách áp bức, thống trị của phát xít Nhật sau 5 năm chiếm đóng; đã đánh đuổi thực dân Pháp dày xéo đất nước ta suốt 87 năm dòng, kết thúc sự ngụ trị của chế độ phong kiến lỗi thời; mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỉ nguyên độc lập tự do, nhân dân lao động trở thành chủ nhân đất nước, tự quyết định cuộc sống và vận mệnh của mình. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mở ra thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh với những chiến công oanh liệt cả trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, cả trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng ta từ hoạt động không hợp pháp trở thành một Đảng công khai lãnh đạo chính quyền cách mạng trong cả nước; nhân dân ta từ thân phận là người dân nô lệ, mất nước, cuộc sống cơ cực lầm than, trở thành người làm chủ đất nước, tự quyết định vận mệnh của dân tộc, gây tầm ảnh hưởng của mình đối với cộng đồng quốc tế. Đây là cuộc đổi đời, một cột mốc đánh dấu sự hồi sinh của một dân tộc; từ đây, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được ghi tên trên bản đồ thế giới; khẳng định vị thế, chỗ đứng của Việt Nam trong lịch sử và trong thế giới đương đại.
Đánh giá ý nghĩa thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “chẳng những giai cấp lao dộng và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và các dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng, lần này là lần đầu tiên trong lịch sử  cách mạng  của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo Cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”[1].
Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và đường lối chính trị - quân sự của Đảng ta; đã định hướng, mở đường; làm cơ sở cho sự phát triển toàn diện đất nước; đồng thời đặt nền móng vững chắc cho sự hình thành và phát triển nền khoa học quân sự, khoa học xã hội nhân văn quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại. Những nhân tố đó đã kết tinh và kiến tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần Việt Nam, giúp Đảng và nhân dân ta vượt qua muôn ngàn chông gai thử thách, chiến thắng đói nghèo, lạc hâu; chiến thắng kẻ thù hung bạo, dựng nên tượng đài nhân cách, phong cách con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.
  Sức mạnh chính trị - tinh thần trong Cách mạng Tháng Tám trước hết thể hiện ở vai trò lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Đây là điều kiện tiên quyết để Cách mạng Việt Nam đi đúng định hướng, Cách mạng Tháng Tám đi đến thành công. Khẳng định điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Cách mạng Việt Nam muốn giành thắng lợi trước hết phải có Đảng cách mệnh”[2], “Đảng có vững cách mệnh mới thành công”2. Thấu hiểu sâu sắc điều ấy, nên từ năm 1925, Người đã sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, ra tờ báo Thanh niên, viết tác phẩm Đường Kách mệnh (1927),… tất cả những việc làm đó đều nhằm một mục đích: giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thanh niên Việt Nam yêu nước, làm hạt giống cách mạng để xây dựng phong trào cách mạng và khi điều kiện phát triển chín muồi, chính Người đã triệu tập hội nghị hợp nhất Đảng, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3.2.1930).
Đảng ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị do phong trào Cần Vương và các sĩ phu yêu nước phát động từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nhờ có Đảng lãnh đạo, Cách mạng Việt Nam có đường lối chính trị đúng đắn, có tư tưởng và hành động thống nhất, tổ chức Đảng có chất lượng cao, trong sạch vững mạnh; sâu sát và bám rễ sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng ở nước ta từ năm 1930 - 1945 chỉ ra rằng: nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam được chuẩn bị từ trước về mọi mặt: từ việc đấu tranh thành lập Đảng, đề ra Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt; thông qua cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh (1930 - 1931), đấu tranh phục hồi tổ chức Đảng (1932 - 1935); cao trào vận động dân chủ chống phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa bình (1936 - 1939) đến việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng, thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, Mặt trận Việt Minh, thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân; phát động đấu tranh chống Nhật, cứu nước, v.v..
Tất cả những việc là đó đã được Đảng ta cân nhắc cẩn trọng, chuẩn bị chu đáo cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Sự phát triển và trưởng thành nhanh chóng của lực lượng vũ trang, trở thành điểm tựa, chỗ dựa vững chắc cho đấu tranh cách mạng, là động lực kích thích phong trào cách mạng quần chúng phát triển nhanh, mạnh mẽ, liên tục. Vì thế, sự gắn kết chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, tạo thành những làn sóng cách mạng vô cùng mạnh mẽ tràn lên, lướt tới, nhấn chìm bọn phát xít Nhật, quấn phăng thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Cho nên, bất luận trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đều đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, công tác đảng, công tác chính trị, đảm bảo cho Đảng luôn có đường lối chính trị đúng đắn, thật sự trở thành bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam.
                   Sức mạnh chính trị - tinh thần trong Cách mạng Tháng Tám thể hiện ở việc Đảng ta phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cho ý Đảng, lòng dân hòa quện thống nhất, quân với dân một ý chí; mọi người dân Việt Nam không phân biệt giàu nghèo, sang hèn; già trẻ, gái trai tất cả đều tự nguyện đồng tâm, hợp sức đứng về phía cách mạng, trong đội ngũ của những người cách mạng, trở thành lực lượng chính trị hùng hậu, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Sức mạnh chính trị - tinh thần trong Cách mạng Tháng Tám là sức mạnh của lòng người, của tâm thế sẵn sàng, tự nguyện, tự giác chiến đấu hi sinh để Tổ quốc được sống, để dân tộc Việt Nam được trường tồn, phát triển.
Chính vì thế, sức mạnh chính trị - tinh thần của Đảng ta, nhân dân ta đã đè bẹp ý chí quân xâm lược, nghiền nát những vũ khí tối tân, hiện đại là những máy bay, xe tăng, tàu chiến của bọn thực dân, đế quốc, làm cho chính phủ của đội quân xâm lược khốn đốn, sự uy nghi của cường quốc về kinh tế, quân sự bị lung lay, tinh thần của một dân tộc “thượng đẳng” bị rệu dạo, lung lay, suy sụp. Với tinh thần gan góc, quả cảm và sáng tạo, đội quân chính trị của Đảng là nhân dân ta, quân đội ta đã được tôi luyện qua bão lửa của cách mạng là các cao trào 1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945.
Cùng với sự phát triển là lớn mạnh của lực lượng chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đặc biệt coi trọng công tác tổ chức rèn luyện cán bộ, chiến sĩ; tổ chức sắp xếp lực lượng vũ trang với cơ cấu hợp lí, kỉ luật tự giác nghiêm minh, có mối quan hệ nội bộ và quân dân tốt, đánh giặc giỏi, công tác hăng say, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. Sự ra đời của Đội du kích Bắc Sơn, Cứu Quốc Quân, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã chứng minh điều đó. Cái mới, cái sâu sắc phản ánh sự am hiểu tường tận về sức mạnh của nhân tố chính trị - tinh thần của con người Việt Nam trong tương quan so sánh lực lượng với địch là sự giác ngộ và nhận thức đúng đắn mục tiêu, lý tưởng, lẽ sống, ý thức trách nhiệm, lòng yêu nước, căm thù giặc của mỗi người dân Việt Nam đối với vận mệnh của Tổ quốc, của Đảng, của nhân dân ta. Họ hiểu rõ vì ai mà chiến đấu, vì ai sẵng sàng hy sinh cả tính mạng, tuổi trẻ. Vì thế, ngay sau khi ra đời, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã lấy phương châm hoạt động của mình: “chính trị trọng hơn quân sự”, “người trước súng sau” để phát triển lực lượng. Nắm vững phương châm ấy, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã tập trung sức xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng để phát triển lực lượng vũ trang. Nhờ đó, sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đã tạo nên sức mạnh vô địch của lực lượng cách mạng; dựa vào nền tảng sức mạnh của lực lượng cách mạng hiện có, Đảng đã nhân thêm sức mạnh mới, nhờ đó từng bước chuyển hóa lực lượng, ta từ yếu chuyển thành mạnh; không những đủ sức để đấu tranh giành chính quyền cách mạng mà còn là nguồn sức mạnh vô địch để bảo vệ chính quyền cách mạng.
Một trong những điểm mấu chốt về phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám là Đảng ta đã nhạy bén, sáng tạo trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa; lấy căn cứ địa để xây dựng và củng cố cơ sở chính trị ở thành thị, nông thôn; do đó, xuất phát từ cơ sở chính trị để xây dựng cơ sở vũ trang, tiến lên xây dựng khu du kích. Những việc làm đó đã được nhân dân hết lòng ủng hộ, giúp đỡ cả về điều kiện vật chất, cả về nhân tố chính trị - tinh thần. Sự lớn mạnh không ngừng của các căn cứ địa cách mạng trong phạm vi cả nước là cơ sở đặc biệt quan trọng để thành lập, củng cố và phát triển chính quyền cách mạng; qua đó, Đảng tuyên truyền, giáo dục các chủ trương, chính sách, tình hình địch và ta đến mọi người dân.
Vì vậy, ý Đảng, lòng dân, quân với dân một ý chí ngày càng bền chặt, phát triển. Rõ ràng là, khi chưa có tình thế cách mạng trực tiếp thì đấu tranh chính trị được Đảng xác định là mặt trận chủ yếu; theo đó, phát huy sức mạnh của nhân tố chính trị - tinh thần đã được đề cao. Khi tình thế mới xuất hiện, Đảng đã nhạy bén, sáng tạo chuyển hình thức đấu tranh từ thấp lên cao, phát động chiến tranh du kích, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần, tiến lên Tổng khởi nghĩa. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, việc chớp thời cơ và tận dụng tốt các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” nên Đảng đã phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, toàn dân tham gia đánh giặc, cả nước đồng lòng, gắng sức; vì thế, Đảng đã tạo nên sức mạnh vô địch để chiến thắng quân xâm lược quân số đông, nhiều tiền, lắm của, vũ khí tối tân hiện đại.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quí báu, cần nghiên cứu kĩ để vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay; đó là kinh nghiệm kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua thực tiễn lãnh đạo ba cao trào cách mạng, Đảng ta đã rút ra kết luận: trong điều kiện, hoàn cảnh của nước ta, nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất. Vì vậy, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và từng bước thực hiện với những chương trình, nhiệm vụ cụ thể. Khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra, Đảng ta xác định, mũi nhọn của cách mạng cần chĩa vào Phát xít Nhật - Pháp. Đó là giải pháp tình thế hướng vào giải quyết mâu thuẫn chủ yếu cấp bách đặt ra. Đồng thời, Đảng đã phát huy tốt vai trò nền tảng của khối liên minh công - nông - binh…, huy động và tổ chức toàn dân tham gia đánh giặc.
Thực tiễn lãnh đạo 3 cao trào cách mạng đã chứng minh điều đó. Đây là một trong những yếu tố cần đặc biệt nghiên cứu, kế thừa và vận dụng vào xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, động viên nhân dân tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Một trong những kinh nghiệm quí báu mà thắng lợi của cách mạng tháng Tám chỉ ra là Đảng ta đã khôn khéo lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù; đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát xít, giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận địa chủ phong kiến, đồng thời lợi dụng mâu thuẫn ngay trong hàng ngũ ngụy quyền, ngụy quân tay sai. Nhờ đó đã cô lập cao độ bọn đế quốc, phát xít và bọn tay sai thân cận chúng; tranh thủ, lôi kéo những phần tử lừng chừng về phía ta. Đây là một kinh nghiệm quí báu rút ra từ Cách mạng Tháng Tám cần nghiên cứu, vận dụng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng cấu thành, tạo nên sức sức mạnh chính trị - tinh thần to lớn, góp phần làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là xây dựng Đảng mácxít - lêninnít ngang tầm nhiệm vụ,  đủ sức lãnh đạo cách mạng. Nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam có được đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn. Đảng ta đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta; đã phát huy triệt để sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh vô địch để đánh thắng kẻ thù; đã sử dụng tối ưu bạo lực cách mạng, kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, v.v..
Có thể khẳng định rằng, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của sức mạnh chính trị - tinh thần Việt Nam của Đảng và nhân dân ta; thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ; thắng lợi của lòng kiên nhẫn, ý chí quyết đánh, quyết thắng; thắng lợi của khối đại đoàn kết dân tộc, của liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức Việt Nam...Giá trị, ý nghĩa và sức sống của nó đặc biệt sâu sắc, đã trở thành “thương hiệu” giá trị Việt Nam, có sức sống mãnh liệt giữa lòng nhân loại; đã đi vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, góp phần làm nên đại thắng mùa Xuân 1975 lịch sử; và ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nó là hành trang cần thiết để Đảng và nhân dân ta, cán bộ, chiến sĩ quân đội ta phát huy nhân tố chính trị - tinh thần, nâng nó lên tầm cao mới, biến nó thành động lực, sức mạnh mới để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó./.


[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H. 2000, tr.159.
[2],2 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H. 2000, tr.188.

CẦN KHẮC PHỤC QUAN NIỆM SAI VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA TÍNH GIAI CẤP, TÍNH NHÂN DÂN VÀ TÍNH DÂN TỘC CỦA QUÂN ĐỘI TA



Giai cấp, nhân dân, quân đội và dân tộc là những phạm trù có mối quan hệ mật thiết với nhau. Song, không ngang bằng nhau mà mỗi yếu tố có vị trí, vai trò lịch sử của nó. Giai cấp, nhân dân, quân đội và dân tộc không thể thay thế lẫn nhau mặc dù giữa chúng có một số nội dung tương đồng, có quan hệ tương tác lẫn nhau, quy định, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau. Sẽ là sai lầm nếu xem xét, tách rời mối quan hệ giai cấp, nhân dân, quân đội và dân tộc hoặc đem quy mối quan hệ này vào mối quan hệ kia, chẳng hạn coi quan hệ dân tộc cũng là quan hệ giai cấp hay quan hệ giai cấp cũng là quan hệ nhân dân và quân đội.
Gia cấp, nhân dân, quân đội và dân tộc sinh ra và mất đi không đồng thời. Trong lịch sử nhân loại, nhân dân, giai cấp, quân đội có trước dân tộc hàng ngàn năm. Khi giai cấp, quân đội mất đi, dân tộc và nhân dân vẫn còn tồn tại lâu dài. Chúng ta sẽ không thể hiểu đầy đủ, sâu sắc tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc của quân đội ta nếu không nhận rõ vai trò của các nhân tố kinh tế - xã hội, đặc biệt là của nhân tố giai cấp, đấu tranh giai cấp. Mối quan hệ giữa giai cấp với nhân dân và dân tộc với tư cách là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất trong xã hội có giai cấp đối kháng là nhân tố xét đến cùng có vai trò quyết định đối với sự hình thành dân tộc, đối với xu hướng phát triển của dân tộc, quy định bản chất xã hội của dân tộc, quy định tính chất của mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, nhân dân và quân đội.
Bản chất xã hội của dân tộc, giai cấp, nhân dân và quân đội được quy định bởi phương thức sản xuất và vai trò thống trị của nó trong đời sống xã hội;  bởi lẽ, quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân dân và quân đội do phương thức sản xuất sản sinh ra. Sự thống trị của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa và của giai cấp công nhân đối với dân tộc, nhân dân và quân đội nói lên tính chất xã hội xã hội chủ nghĩa của dân tộc và quân đội. Tính chất này thể hiện ở vai trò thống trị dân tộc, vai trò đại diện cho lợi ích dân tộc của giai cấp công nhân đối với quân đội do nhà nước của giai cấp công nhân sáng lập, nuôi dỡng và sử dụng quân đội. Điều này đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam khẳng định: Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, giai cấp công nhân Việt Nam nắm quyền thống trị trong dân tộc và lãnh đạo quân đội. Do đó, giai cấp công nhân Việt Nam trở thành “giai cấp dân tộc”; đóng vai trò lãnh đạo dân tộc và quân đội ta.
Sự thay đổi quan hệ kinh tế - xã hội dưới mọi hình thức, về bản chất, là thay đổi phương thức sản xuất xã hội, làm cho phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa trở thành phương thức sản xuất thống trị và chính nó, đã làm cho nhân dân ta, dân tộc ta từng bước chuyển hóa thành hình thức cộng đồng người không có giai cấp đối kháng, thành dân tộc xã hội chủ nghĩa. Theo đó, quân đội ta mang bản chất của giai cấp công nhân, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, là cơ sở quyết định bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc. Điều đó chứng tỏ rằng, áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản, sâu xa của áp bức nhân dân, áp bức dân tộc; đồng thời áp bức giai cấp sản sinh ra quân đội - công cụ của nhà nước thống trị, theo đó, cũng kết thúc vai trò lịch sử của nó. Đây là cơ sở để chấm dứt sự thống trị của giai cấp đối với dân tộc, đối với nhân dân với tư cách là giai cấp bóc lột dân tộc, bóc lột nhân dân, sản sinh ra quân đội của giai cấp bóc lột.
Nhân dân và quân đội ta sống trong lòng dân tộc, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đã trở thành quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nói cách khác, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta vốn là dân tộc thuộc địa nửa phong kiến đã giành được độc lập về chính trị; chấm dứt vai trò thống trị của thực dân, đế quốc và tay sai theo kiểu cũ và mới.  Đó là cơ sở để nhân dân ta, dân tộc ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu, bị lệ thuộc vào thực dân, đế quốc và phong kiến.
Rõ ràng, sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với thành quả của Cách mạng tháng Tám đã chấm dứt sự bất bình đẳng dân tộc và áp bức dân tộc; điều đó cũng có nghĩa là đưa địa vị của người dân từ thân phận nô lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân của đất nước, sản sinh ra quân đội của giai cấp vô sản, quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và nhờ nó, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu và đại thắng mùa Xuân 1975, thống nhất nước nhà; đưa đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó hoàn toàn đúng với quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin: Giai cấp vô sản chỉ có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội chỉ khi và khi nào xóa bỏ triệt để tệ nạn áp bức dân tộc, áp bức nhân dân cũng như quân đội của gia cấp bóc lột. Điều đó có nghĩa là phải xóa bỏ nguồn gốc sản sinh ra chế độ người bóc lột người, nô dịch người. Khẳng định điều này, V.I.Lênin chỉ rõ: Chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân, mới tạo tiền đề cần thiết để giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện cuộc cách mạng vô sản, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và giải phóng nhân loại.
Vì vậy, nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản nhất trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân; quyết định bản chất của quân đội. Lẽ đương nhiên, Quân đội nhân dân Việt Nam do giai cấp công nhân và nhân dân lao động nuôi dưỡng, rèn luyện, chiến đấu và trưởng thành không thể tách rời nhân tố giai cấp và nhân tố dân tộc, nhân tố nhân dân. Quan hệ máu thịt của các nhân tố ấy tạo nên sức mạnh vô địch, bách chiến bách thắng của quân đội ta. Thực tế chỉ ra rằng, ở nước ta, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng, liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp cách mạng, đã, đang và luôn là những vấn đề trọng yếu của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung, công cuộc đổi mới và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam nói riêng, không thể thành công nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nếu không xây dựng, củng cố vững chắc khối liên minh bền vững giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, đội ngũ tri thức; nếu không có quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Nhấn mạnh vai trò của nhân tố giai cấp trong mối quan hệ mật thiết với nhân tố nhân dân và nhân tố dân tộc của quân đội, Đảng ta không hề coi thường vai trò của nhân tố dân tộc và nhân tố nhân dân trong sự phát triển của cách mạng cũng như sự ra đời, chiến đấu, trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta. Vì vậy, Đảng ta luôn coi vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề hệ trọng của cách mạng Việt Nam, một nhân tố không thể thiếu trong xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Song, để nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề giai cấp, dân tộc, nhân dân trong xây dựng quân đội ta hiện nay, nhất thiết phải đứng vững trên lập trường, quan điểm của giai cấp tiến bộ, giai cấp cách mạng nhất, tức là lập trường, quan điểm và lợi ích của giai cấp công nhân. Không thể có một quân đội tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân nếu xem xét nó tách rời hoặc đối lập nhân tố giai cấp với nhân tố dân tộc và nhân tố nhân dân trong tổ chức, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Trước đây, cũng như hiện nay, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, về bản chất, mang tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc. Bởi vậy, nó được đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam - Người đại diện trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; đại diện chính đáng cho lợi ích của toàn thể dân tộc Việt Nam. Cho nên, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của Cách mạng Việt Nam, của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân Việt Nam thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công. Quan điểm nhất quán của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, Đảng của giai cấp công nhân trong bất luận hoàn cảnh nào, không được coi nhẹ việc giáo dục bản chất giai cấp công nhân cho lớp công nhân trẻ tuổi, cho quần chúng nhân dân lao động. Đồng thời, giai cấp công nhân không được quên rằng, cuộc đấu tranh giải phóng bản thân họ, tự nó mang tính chất dân tộc sâu sắc, gắn bó chặt chẽ với nhân dân và quân đội cách mạng.
Bởi lẽ, dân tộc là địa bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp do giai cấp công nhân tiến hành. Ở đó, giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức để xây dựng nên quân đội cách mạng -  quân đội kiểu mới. Vì vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân Việt Nam, trước hết và quan trọng nhất, đã giành được chính quyền về tay mình, tổ chức ra Nhà nước, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam; nhờ đó đã vươn lên thành giai cấp dân tộc, tự mình trở thành dân tộc.
Quân đội ta là quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam; cho nên sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân dân của quân đội ta được quy định bởi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì một lý do nào đó, nhân tố này không được thực hiện triệt để thì quân đội sẽ mất đi sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc. Quân đội đã mắc mưu “phi chính trị hóa” của các thế lực thù địch. Chúng ta đều biết rằng, áp bức giai cấp là nguyên nhân sâu xa của áp bức dân tộc. Song, nó không phải một chiều mà ngược lại, áp bức dân tộc luôn tác động trở lại với áp bức giai cấp một cách mạnh mẽ. Nó nuôi dưỡng áp bức giai cấp và làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp. Điều đó đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh: thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và áp bức dân tộc ta, đã khiến cho dân tộc ta không thể có được tự do, độc lập; nước mất, nhà tan; nhân dân lao động lầm than, khổ cực.
Chính vì vậy, mối quan hệ giữa đấu tranh giai cấp của nhân dân ta với đấu tranh để giải phóng dân tộc ở nước ta không phải chỉ có một chiều là đấu tranh giai cấp tác động vào đấu tranh dân tộc mà còn có chiều ngược lại là, đấu tranh dân tộc, giải phóng dân tộc tác động mạnh mẽ vào cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam. Bởi lẽ, ngày nào dân tộc ta chưa có tự do, độc lập, thống nhất thì ngày ấy, giai cấp công nhân - đại biểu cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc cũng không thể trở thành giai cấp dân tộc.
Điều đó luôn đặt ra yêu cầu cấp thiết là giai cấp công nhân phải đi đầu trong cách mạng giải phóng dân tộc, phải thực hiện trước tiên nhiệm vụ khôi phục và giành lại độc lập, tự do, thống nhất dân tộc. Thực hiện sứ mệnh ấy, nhất thiết giai cấp công nhân Việt Nam phải sáng lập, tổ chức, giáo dục và rèn luyện quân đội cách mạng để thực hiện nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cho nên, quân đội ta có vai trò đặc biệt quan trọng trong đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đồng thời, là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh cách mạng, trong giải quyết mối quan hệ giữa đấu tranh giải phóng dân tộc và đấu tranh giải phóng giai cấp trước đây và hiện nay. Thực tiễn 70 năm xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ tận tình, có hiệu quả của nhân dân ta đã nói lên điều đó.
Nhấn mạnh điều này, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ rằng, nhiệm vụ của giai cấp công nhân, trước hết là vì lợi ích căn bản của chính mình nên phải ra sức ủng hộ cách mạng giải phóng dân tộc. Đó là phương cách duy nhất để đưa cách mạng tiến lên; nhờ đó mà Đảng Cộng sản chứng tỏ mình là đại biểu trung thành, chân chính của dân tộc, của nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng và Bác Hồ sáng lập và rèn luyện, chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của mình chỉ khi thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng là đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, đem lại tự do, độc lập cho nhân dân. Điều đó có nghĩa là quân đội ta thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, khi giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích của nhân dân; đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc.
Một trong những bài học lớn nhất của cách mạng Việt Nam là bài học kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc giữa giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội, giữa xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và xây dựng quân đội. Trong mọi thời kì của cách mạng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Đồng thời, quân đội ta đã và đang giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc và quốc tế, lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế với lợi ích của nhân dân; đảm bảo sự thống nhất về lợi ích giữa giai cấp công nhân với lợi ích của giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trên cơ sở thực hiện tốt đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Từ chiều sâu của sự thống nhất tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc, quân đội ta đồng thời thực hiện tốt vai trò, chức năng đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, gắn chặt vấn đề dân tộc với các vấn đề quốc tế; kiên quyết chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa sôvanh ích kỷ dân tộc, chủ nghĩa bá quyền áp đặt sự thống trị đối với dân tộc ta.
Mấu chốt của sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc là sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa ba nhân tố ấy. Trong đó, theo tư tưởng của Bác Hồ, nhân tố nhân dân trong xây dựng quân đội cách mạng là một vấn đề hệ trọng, thể hiện rất rõ quan điểm “lấy dân chúng (công nông) làm gốc” của Người. Đối với nước ta, khi đất nước còn bị giặc ngoại bang xâm lược thì nhiệm vụ chính trị hàng đầu của toàn dân là đấu tranh giành cho được tự do, độc lập. Con đường duy nhất để thực hiện mục tiêu ấy là dùng bạo lực cách mạng, là con đường cách mạng vô sản.
Tuy nhiên, theo Bác Hồ, đối với nước ta, một nước thuộc địa nửa phong kiến thì vấn đề trước tiên là thực hiện “dân tộc cách mạng”. Sự nghiệp vĩ đại này chỉ có thể thành công khi “công nông là gốc của cách mạng”; đánh đuổi quân xâm lược là công việc của mọi người, mọi nhà. Muốn vậy, theo Bác Hồ, cần phải có đảng cách mệnh dẫn đường, chỉ lối cho quốc dân đi; sau đó là tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân. Tư tưởng này của Bác đã đặt nền móng cho đường lối chiến tranh nhân dân của cách mạng Việt Nam, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, xây dựng quân đội ta, Đảng và Bác Hồ luôn coi trọng vấn đề gắn chặt việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân với phong trào cách mạng của nhân dân.
Người khẳng định, ở nước ta, nếu quân đội nhân dân không gắn bó mật thiết với phong trào cách mạng của toàn dân thì sẽ không có lực lượng vũ trang hùng mạnh. Ngược lại, không có lực lượng vũ trang hùng mạnh hậu thuẫn thì phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân sẽ không thể phát triển, không thể giành thắng lợi. Tư tưởng này của Bác thể hiện rõ trong việc tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Nhờ đó, chúng ta không những đã huy động được sức mạnh của toàn dân mà còn xây dựng quân đội cách mạng phù hợp với tình hình cụ thể của nước ta, do không có điều kiện xây dựng một đội quân nhà nghề, thoát ly dân chúng, mà gắn chặt nhiệm vụ chiến đấu với nhiệm vụ công tác và sản xuất.
Trong quá trình xây dựng quân đội cách mạng, chúng ta đã quán triệt sâu sắc đường lối nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân; đặc biệt là chăm lo cái gốc của quân đội, tức là nhân dân. Bởi lẽ, quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Nhân dân có giác ngộ chính trị, có khỏe mạnh và biết đánh giặc thì mới làm cho quân đội ta hùng cường.
Cho nên, Đảng, Nhà nước, Quân đội phải chăm lo bồi dưỡng sức dân, giúp nhân dân vượt qua mọi khó khăn, ổn định cuộc sống, đẩy mạnh sản xuất; tham gia kháng chiến, kiến quốc. Nếu quân đội mà xa rời nhân dân, không biết dựa vào nhân dân, không được nhân dân ủng hộ, giúp sức, thì dù quân đội có nhiều vũ khí tối tân hiện đại, song không tránh khỏi thất bại. Điều đó có nghĩa là, khi đánh giặc cũng như khi xây dựng, huấn luyện, quân đội phải gần dân, sống trong lòng nhân dân, dù quân đội có chính quy, hiện đại đến mấy thì vẫn phải bám dân, giữ mối quan hệ chặt chẽ với nhân dân. Tính nhân dân của quân đội ta thể hiện rõ ngay từ ngày Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân mới ra đời và nó được bồi đắp, nuôi dưỡng trong suốt chặng đường 70 năm qua. Tính nhân dân trong xây dựng quân đội ta còn thể hiện ở việc hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ và bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng mà nhân dân ta bằng xương máu của mình đã giành được.
Tóm lại, chỉ có dựa vào nhân dân, quân đội ta mới có thể xây dựng, phát triển, chiến đấu và chiến thắng. Đó là điểm khác nhau căn bản giữa Quân đội nhân dân Việt Nam với các đội quân nhà nghề của giai cấp, chế độ bóc lột, thống trị, áp bức nhân dân. Lịch sử 70 năm xây dựng, phát triển, chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta đã xác nhận sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội và quan hệ chặt chẽ giữa quân đội với nhân dân là những nhân tố đảm bảo cho quân đội ta trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Đó là những điều cần phổ biến, tuyên truyền, giáo dục cho các thế hệ cán bộ, sĩ quan trẻ, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội ta; giúp họ nhận thức sâu sắc sự thống nhất biện chứng giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc của quân đội anh hùng. Đây là vấn đề có tính quy luật của xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong thời kỳ mới./.

HIỂU CHO ĐÚNG VẤN ĐỀ VĂN HÓA PHẢI ĐƯỢC ĐẶT NGANG HÀNG VỚI KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI



1.Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là nguồn cội sức mạnh của dân tộc, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thực hiện chiến lược con người, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, bảo đảm cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đi đến thành công, là “chìa khóa” mở con đường phát triển kinh tế tri thức, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Văn hóa không chỉ là nhân tố nội sinh thúc đẩy con người Việt Nam phát triển, hoàn thiện nhân cách mà còn là mục tiêu, động lực thúc đẩy việc tái cấu trúc lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển bền vững đất nước; trở thành nền tảng tinh thần của xã hội ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI khẳng định: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Vì vậy, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần yêu nước, nhân văn, dân chủ và khoa học, tạo môi trường văn hóa lành mạnh để phát triển toàn diện con người Việt Nam là xây móng, đắp nền vững chắc để phát triển kinh tế, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
2. Về nguyên tắc, chúng ta đều nhận thức rõ, sản xuất vật chất, phát triển kinh tế là cơ sở nền tảng quyết định sự tồn tại, phát triển lịch sử xã hội loại người. Song, trong lịch sử phát triển của các nền văn minh, văn hóa nhân loại, bên cạnh vai trò quyết định của sản xuất vật chất, của yếu tố kinh tế, suy đến cùng, đối với sự phát triển của xã hội loài người thì các yếu tố chính trị, văn hóa, tinh thần ...có vai trò tác động trở lại rất quan trọng, thậm chí vào những thời điểm lịch sử nhất định, các yếu tố chính trị, văn hóa, tinh thần có tác dụng quyết định tình hình, diễn biến thời cuộc với sức mạnh sáng tạo vô cùng to lớn của con người. Lịch sử các nền văn minh, văn hóa nhân loại đã chỉ ra rằng, không phải cứ quốc gia, dân tộc nào có nền kinh tế phát triển là có nền văn minh, văn hóa tương ứng phát triển; không có văn hóa, nhân cách đạo đức, cá nhân dù có tài, song vô dụng; mất văn hóa là mất tất cả.
Ở đây cần hiểu việc đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội không có nghĩa là làm cho kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa “dàn hàng ngang cùng tiến” hay là “cào bằng” mà phải tùy theo thời gian, vị trí, vai trò, tác dụng của từng nhân tố để xác định đúng và trúng trọng tâm, trọng điểm đầu tư phát triển cho phù hợp, đảm bảo sự cân đối, hài hòa, tính hiệu quả của đầu tư, phù hợp với điều kiện lịch sử cho phép. Điều quan trọng là nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn vị trí, vai trò, giá trị và ý nghĩa vô cùng to lớn của văn hóa đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, đối với việc thực hiện chiến lược con người và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới để từ đó, việc hoạch định đường lối, chiến lược, sách lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc phải hàm chứa nội dung xây dựng, phát triển văn hóa sao cho đồng bộ, khả thi. Mỗi một bước tiến của sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội phải đồng thời là một bước tiến của phát triển văn hóa, nghệ thuật cách mạng. Có đổi mới tư duy lý luận, nhận thức đúng và giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế, chính trị và văn hóa, chúng ta mới xây dựng được con người mới - chủ thể xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ; thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội ta trong việc chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo; là cơ sở để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
 Vì vậy, quan tâm chăm lo phát triển các yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế - xã hội là cơ sở chắc chắn nhất để giữ vững sự ổn định chính trị, môi trường hòa bình, tính ưu việt, sự khoan dung, tinh thần nhân văn, dân chủ và khoa học ở nước ta - cái nhân cốt tạo dựng, làm nên một nước Việt Nam mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá nhấn mạnh hoặc coi thường một yếu tố nào đó, tất yếu sẽ rơi vào lối tư duy siêu hình, duy tâm và hệ quả của nó sẽ dẫn đến sự mất cân bằng trong phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
3. Kể từ khi Đảng ta ra đời, vấn đề văn hóa, nghệ thuật cách mạng luôn được Đảng ta quan tâm, chăm lo, phát triển. Từ năm 1943, Đảng đã ban hành Đề cương văn hóa Việt Nam. Trong bản Đề cương này, Đảng ta đã khẳng định rõ thái độ của mình đối với vấn đề vǎn hoá và vị trí, vai trò của văn hóa trong cách mạng Việt Nam, mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hóa, kinh tế và chính trị. Vì vậy, trong Đề cương về văn hóa Việt Nam công bố năm 1943, Đảng ta viết: “1. Phạm vi vấn đề: Vǎn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật. 2. Quan hệ giữa vǎn hoá và kinh tế, chính trị: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ vǎn hoá của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc). 3. Thái độ Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề vǎn hoá: a) Mặt trận vǎn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, vǎn hoá), ở đó người cộng sản phải hoạt động; b) Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng vǎn hoá nữa; c) Có lãnh đạo được phong trào vǎn hoá, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả.”[1]
Có thể khẳng định rằng, Đề cương văn hoá Việt Nam là bản cương lĩnh văn hoá đầu tiên của Đảng ta, có tác dụng soi đường, chỉ lối và định hướng tư tưởng, nhận thức, phương châm hoạt động văn hóa, văn nghệ cho toàn Đảng, toàn dân và cuộc đấu tranh cách mạng ở Việt Nam; khai sinh và phát triển nền “vǎn hoá xã hội chủ nghĩa” ở nước ta. Trong cương lĩnh ấy, Đảng ta chỉ rõ: Để cách mạng Việt Nam đi đến thành công, Đảng cần phải có các tổ chức và đội ngũ cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hoá, văn nghệ để gây dựng và thúc đẩy phong trào văn hoá tiến bộ, chống lại văn hoá phát xít thụt lùi, văn hóa phong kiến bảo thủ, lạc hậu...
Sau gần 30 năm đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nét nổi bật là đời sống văn hóa tinh thần của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta ngày càng phong phú, đa dạng; đã và đang phát huy tốt các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, của gia đình, dòng họ, cộng đồng; từng bước hình thành các chuẩn mực văn hóa, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Tư duy lý luận của Đảng ta về văn hóa, nghệ thuật có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân được nâng lên; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ, đáp ứng tốt nhu cầu phát triển và hưởng thụ các giá trị văn hóa của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân.
Nhờ đó, việc xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần quan trọng vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa mới một cách đồng bộ, thống nhất, đạt chất lượng, hiệu quả. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện, phù hợp với chủ trương, đường lối mở cửa, hội nhập quốc tế của Đảng ta. Vì vậy, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của 54 dân tộc anh em trong cộng đồng văn hóa Việt Nam được bảo tồn, tôn tạo; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của đồng bào các dân tộc được quan tâm. Đời sống của văn nghệ sĩ không ngừng được cải thiện; số lượng, chất lượng các công trình, tác phẩm văn hóa, nghệ thuật ngày càng tăng; quyền tự do sáng tạo được tôn trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa, nghệ thuật có nhiều khởi sắc.
4. Tuy đã rất cố gắng, song so với kết quả đạt được trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thì kết quả đạt được trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật chưa tương xứng, chưa ngang tầm; chưa đủ sức tạo ra “cú hích” đủ mạnh để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng con người và môi trường văn hóa xã hội chủ nghĩa lành mạnh; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, quan liêu, lãng phí, các tệ nạn và tiêu cực xã hội. Đời sống văn hóa, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân còn nghèo nàn, đơn điệu, lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Không ít cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vẫn băn khoăn về tình trạng môi trường văn hóa còn thiếu lành mạnh, ngoại lai, tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng; đồng thời, mong muốn được thưởng thức nhiều hơn các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao; bảo tồn, phát huy tốt hơn giá trị di sản văn hóa dân tộc; đổi mới hệ thống thiết chế văn hóa và tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa ở cơ sở.
Sở dĩ xây dựng, phát triển văn hóa chưa ngang tầm với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội... là do nhiều nguyên nhân chi phối, tác động, song chủ yếu là do nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chưa chỉ đạo quyết liệt trong triển khai xây dựng đời sống, môi trường văn hóa mới lành mạnh. Tư duy coi trọng kinh tế, ham làm giàu; coi nhẹ văn hóa vẫn tồn tại ở không ít cán bộ, đảng viên. Việc cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và tính khả thi không cao. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa, nghệ thuật chậm được đổi mới hoặc đổi mới chậm, bị xem nhẹ, kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. So với các lĩnh vực khác, đầu tư cho lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật chưa tương xứng, còn dàn trải và hiệu quả thấp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực văn hóa, nghệ thuật, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp chưa được quan tâm đúng mức. Đấu tranh phòng, chống sự xâm lăng, xâm nhập, thẩm lậu của các sản phẩm văn hóa độc hại, các yếu tố “ngoại lai” không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam chưa thật sự kiên quyết, thậm chí có lúc, có nơi còn buông lỏng, gây bất bình trong cán bộ, chiến sĩ và nhân dân.
5. Để văn hóa thực sự ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội, chúng ta cần bổ sung, hoàn thiện chiến lược xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, có hiểu biết sâu sắc về lịch sử, truyền thống, văn hóa dân tộc. Kết hợp chặt chẽ các hoạt động văn hóa với các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế tri thức. Trên cơ sơ đó, xây dựng hệ tiêu chí chuẩn mực về giá trị nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ mới; khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn của dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh .
Phát triển tư duy lý luận, nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trên cơ sở đổi mới căn bản, toàn diện công tác giáo dục chính trị, đạo đức và pháp luật, ý thức văn hóa, nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Cân đối các ngành, các lĩnh vực để từng bước nâng dần mức đầu tư ngân sách, cơ sở vật chất, kỹ thuật để không ngừng nâng cao thể lực, tầm vóc, trí tuệ con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng tài năng văn hóa, nghệ thuật, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Kiên quyết đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các tệ nạn, tiêu cực xã hội, các hành vi sai trái, ảnh hưởng xấu đến văn hóa chính trị của Đảng. Có lộ trình, bước đi, giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những mặt hạn chế, khiếm khuyết của con người Việt Nam.
Chú trọng tổng kết thực tiễn, tiếp thu, kế thừa kinh nghiệm xây dựng và giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa gia đình, nhà trường và xã hội của các nước tiên tiến để vận dụng vào điều kiện nước ta cho phù hợp, hiệu quả. Đầu tư hơn nữa để xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, coi nó không chỉ là “chiếc nôi” hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người mới xã hội chủ nghĩa mà còn là “bệ phóng” để mỗi cá nhân chủ động, tích cực tham gia xây dựng đời sống văn hóa cộng đồng, nhất là khu dân cư, các cơ quan, đơn vị..., đạt chuẩn mực về văn hóa; thực hiện tốt nếp sống văn hóa mới tiến bộ, văn minh, chống các hủ tục trong việc cưới, việc tang, lễ hội... Đổi mới nội dung, hình thức tổ chức, triển khai thực hiện các cuộc vận động văn hóa, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế.
Văn hóa đã và đang đồng hành cùng dân tộc. Tăng hàm lượng văn hóa trong từng hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội...là con đường tất yếu để thực hiện thứng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh/.


1,2,3 Xem Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 316 - 321.

CẦN CÓ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN MẠNH ĐỂ XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI VỀ CHÍNH TRỊ



Công tác cán bộ luôn là công việc trọng yếu quyết định chất lượng, hiệu quả của mọi họat động. Trong lịch sử xây dựng và phát triển của mình, công tác cán bộ và xây dựng động ngũ cán bộ KHXH&NVQS, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và tham gia đấu tranh tư tưởng, lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng luôn là mối quan tâm hàng đầu của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị và các cấp ủy đảng các cấp trong toàn quân.
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định rằng, trong hoạt động nghiên cứu KHXH&NVQS, đề xuất quan điểm, chủ trương mới của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta thì đội ngũ cán bộ khoa học có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng; là một trong những yếu tố quyết định chất lượng, hiệu quả nghiên cứu KHXHNVQS đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong việc tham mưu, hoạch định đường lối, chủ chương, chính sách xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng, củng cố thế trận chiến tranh nhân dân; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nhận thức rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học quân sự, trong 70 năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị luôn quan tâm, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu KHXH&NVQS, làm nòng cốt trong nghiên cứu KHXH&NVQS nói riêng, phát triển hoạt động khoa học xã hội Việt Nam nói chung. Với tinh thần trách nhiệm cao và không ngừng sáng tạo, đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta; trực tiếp góp phần quan trọng, thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị toàn quân, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao sức mạnh tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội ta.
  Trước yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng, nhất là xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cho cán bộ, chiến sĩ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân, đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi cao hơn về xây dựng đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS là những cán bộ, sĩ quan quân đội có trình độ khoa học cao, có khả năng tổ chức triển khai, nghiên cứu những vấn đề KHXH&NVQ, nghiên cứ cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, giải đáp các vấn đề mà thực tiễn xây dựng nền quốc phòng tòan dân, phát huy nhân tố con người trong quân đội, các vấn đề phát triển lý luận xây dựng quân đội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, đối phó với cuộc chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao đặt ra. Đồng thời, có khả năng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học XHNVQS kế cận, kế tiếp và phát triển chuyên ngành này cho quân đội và quốc gia.
  Ngoài những yêu cầu về phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong của đội ngũ cán bộ, sĩ quan Việt Nam, cán bộ KHXH&NVQS cần phải có những phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong, phong cách của nhà khoa học chuyên ngành KHXH&NVQS. Đó là sự chuẩn mực về lập trường, quan điểm giai cấp; tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; sự am hiểu, tường minh, sâu sắc về bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tri thức các môn khoa học xã hội và nhân văn khác; có hiểu biết, vốn sống, kinh nghiệm về hoạt động chính trị - quân sự; nắm bắt và tham mưu, đề xuất trúng và đúng các vấn đề về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội về chính trị, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong bộ đội, phát huy nhân tố con người cán bộ, chiến sĩ trong xây dựng tổ chức và hoạt động quân sự. Giải quyết tốt các mối quan hệ, hoạt động quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đặt ra. Trong đó, cán bộ KHXH&NVQS  phải là những cán bộ, sĩ quan am hiểu đầy đủ, sâu sắc về chức năng, nhiệm vụ của công tác đảng, công tác chính trị; đồng thời phải có đầy đủ phẩm chất, tư cách của nhà giáo; có khả năng giảng dạy các chuyên đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị công tác trong quân đội, nhất là đội ngũ chính ủy, chính trị viên và giảng viên Khoa học Xã hội Nhân văn, có trình độ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ; sẵn sàng tham gia các hoạt động hợp tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành với các trung tâm, viện nghiên cứu dân chính đảng khi tổ chức yêu cầu, điều động.
 Rõ ràng, yêu cầu, nhiệm vụ mới đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS trong thời kỳ mới đang đòi hỏi mỗi cán bộ KHXHNVQS cần có sự am hiểu đầy đủ, sâu sắc về lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chuyên ngành KHXH&NVQS; vận dụng sáng tạo vốn sống, kinh nghiệm, tri thức vốn có vào phát triển chuyên ngành, đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên, đội ngũ nhà giáo KHXH&NV cho các nhà trường quân đội.
 Như vậy, ngoài mảng kiến thức chuyên ngành KHXH&NV nói chung, trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS, cần chú ý mảng kiến thức khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học và nghệ thuật đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị và đội ngũ nhà giáo chuyên ngành KHXH&NVQS; đồng thời, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ các nhà KHXH&NVQS kế cận và kế tiếp. Việc xác định các phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong, phong cách của đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS cần hướng mạnh vào việc thực hiện tốt yêu cầu nhịệm vụ xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chuẩn bị cho chiến tranh nếu nó xẩy ra. Vì suy đến cùng, chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học của các nhà KHXH&NVQS phải đi vào đời sống, phục vụ con người, phục vụ sự nghiệp cách mạng thì mới có giá trị, ý nghĩa; đồng thời, góp phần tích cực để tăng cường sư lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng, hiệu quả; hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị, làm cho cán bộ, chiến sĩ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp của Đảng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.
 Ngoài các phẩm chẩt năng lực nêu trên, trong xây dựng đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS thời kì mới, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học và phong cách của người lãnh đạo, chỉ huy. Bởi lẽ, đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS phải là những chiến sĩ xung kích, đi đầu trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kỉ luật của quân đội. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, ngăn chặn, đẩy lùi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, “phi chính trị hóa” quân đội, thúc đẩy, gây “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; sự đồng thuận trong quân đội, trong xã hội; tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân ta an tâm đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
  Phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS trong quân đội ta không phải tự nhiên mà có mà là sản phẩm của những chủ định, có mục đích của quá trình đào tạo, bồi dưỡng, phát triển, phát huy vai trò nhân tố chủ quan của mỗi cán bộ, sĩ quan - nhà khoa học. Trong xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên ngành này, cần nhận thức đúng các yếu tố tác động, chi phối là điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Đó là, cần có sự nhận thức và quan điểm đúng đắn về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS trong xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, phát huy nhân tố con người, đấu tranh tư tưởng, lý luận... Đây là cơ sở quan trọng để có quan điểm, chủ trương, chính sách cụ thể, hợp lý đối với việc tuyển chọn đầu vào, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, phát huy sở trưởng, sở đoản của mỗi nhà khoa học. Đồng thời, xác định đúng và trúng các yêu cầu, nội dung, hình thức, biện pháp, lộ trình, bước đi trong quá trình giáo dục đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ này.
Để nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, cần thực hiện tốt một số biện pháp sau.
Thứ nhất, thống nhất nhận thức của các tổ chức, lực lượng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS. Nhận thức giữ vai trò quan trọng trong định hướng và chỉ đạo của con người. Nhận thức đúng là cơ sở quy định thái độ, động cơ đúng đắn, xây dựng ý chí, quyết tâm, trách nhiệm cao trong nghiên cứu khoa học. Nếu nhận thức lệch lạc, thiếu khoa học sẽ dẫn tới hành động thiếu khoa học, thụ động và hiệu quả không đc như mong muốn, thậm chí thất bại. Việc tạo sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng đối với xây dựng đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS trong thời kì mới cần thực hiện tốt những vấn đề sau:
Một là, đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, của Quân ủy Trung ương về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS trong thời kì mới. Trong đó, cần làm cho mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ đảng viên quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Phát triển KHXH&NVQS là nhằm đẩy mạnh nghiên cứu về con người, phát huy nhân tố con người của cán bộ chiến sĩ, xây dựng cho họ có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng; say mê, nhiệt tình, tâm huyết trong nghiên cứu sáng tạo khoa học và đưa khoa học vào đời sống, vào họat động thực tiễn quân sự; sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu khi Tổ quốc cần, haòn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ khi tổ chức tin tưởng giao phó.
Hai là, kết hợp chặt chẽ nhiều hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục làm cho mọi người, mọi tổ chức, mọi lực lượng thấy rõ tầm quan trọng và tính cấp thiết phải tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS - một trong những lực lượng nòng cốt để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, đáp ứng nhu cầu xây dựng đất nước trong thời kì mới.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy đảng và người đúng đầu cơ quan, đơn vị, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, kịp thời đấu tranh với những nhận thức giản đơn, phiến diện và những biểu hiện thiếu trách nhiệm trong xây dựng đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS.
Bốn là, thông qua hoạt động thực tiễn nghiên cứu và quản lý khoa học để sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, phải kịp thời đề ra biện pháp khả thi để nâng cao chất lượng đội ngũ chuyên ngành này.
Thứ hai, thực hiện tốt quy hoạch đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS. Để thực hiện tốt biện pháp này cần chủ động, tích cực triển khai và thực hiện tốt những nội dung sau đây:
Một là, quy hoạch để xây dựng đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS phải có tầm nhìn xa, trông rộng; đón trước sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, xây dựng và phát triển bền vững nền quốc phòng toàn dân trong kỉ nguyên toàn cầu hóa, hòa nhập với quốc tế.
Hai là, quy hoạch đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS phải gắn với xây dựng tổng thể đội ngũ cán bộ trong toàn quân, nhất là các học viện, trường đại học, viện nghiên cứu, đảm bảo sự liên thông, kế thừa và phát triển. Vì vậy, trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS, không chỉ cần thiết phải luân chuyển cán bộ, bảo đảm sự toàn diện của đối tượng trong diện phát triển, tạo ra môi trường mới, điều kiện mới để cán bộ được tắm mình trong thực tiễn, trải nghiệm cuộc sống, vừa có cơ hội để kiểm nghiệm hành trang, vốn sống, lượng tri thức hiện có; phát hiện những mảng kiến thức còn thiếu để bổ sung, cập nhật, mà còn tạo điều kiện để cán bộ bổ sung kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn để quản lý bộ đội, rèn luyện phong cách lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị. Trong đó, cần chú trọng việc quy hoạch, đào tạo cán bộ KHXH&NVQS gắn với chuyên ngành nghiên cứu và thực tế giảng dạy. Đối với số cán bộ, giảng viên KHXH&NVQS trẻ, một mặt tạo điều kiện cho họ đi đào tạo sau đại học bậc thạc sĩ, tiến sĩ, đồng thời, tạo điều kiện cho họ tham gia giảng dạy ở các khoa chuyên ngành và khi điều kiện cho phép thì luân chuyển đơn vị để cán bộ đi thực tế đơn vị giữ chức phụ lãnh đạo chỉ huy phù hợp với cấp bậc quân hàm và độ tuổi. Thông qua thực tiễn nghiên cứu khoa học, giảng dạy và quản lý đơn vị để phân luồng đào tạo chuyên sâu cho phù hợp. Những đồng chí có năng lực giảng dạy và nghiên cứu tốt thì nên bố trí công tác ở các khoa chuyên ngành KHXH&NV. Những đồng chí có năng lực nghiên cứu nổi trội thì bố trí về Viện KHXH&NV Bộ Quốc phòng để họ có điều kiện đi sâu vào nghiên cứu một vài vấn đề để có thể trở thành chuyên gia; đồng thời kết hợp nghiên cứu khoa học với giảng một số chuyên đề cho một số đối tượng đào tạo chính ủy, chính trị viên, giảng viên KHXH&NV ở Đại học Chính trị, Học viện Chính trị và một số khoa KHXH&NV ở các trường đại học, học viện khác. Bên cạnh việc phân luồng, lựa chọn, bố trí sử dụng từng loại cán bộ KHXH&NV cho phù hợp, cũng cần ưu tiên tuyển chọn từ số học viên đào tạo sĩ quan chính trị tốt nghiệp loại giỏi, cho đi thực tế giữ chức chính trị viên phó đại đội, tiểu đoàn trong thời gian nhất định để sớm đưa về đào tạo sau đại học ở bậc thạc sĩ, tiến sĩ. Có như vậy, quân đội mới có những tiến sĩ, phó giáo sư trước tuổi 45, giáo sư và nghiên cứu viên cao cấp trước tuổi 50. Cùng với đó, cũng cần có chính sách để tuyển chọn một số sinh viên tốt nghiệp loại giỏi các chuyên ngành KHXH&NV là đối tượng dân sự, đưa vào quân đội, thực hiện các quy trình đào tạo cần thiết để họ có thể trở thành các nhà khoa học KHXH&NVQS đầu ngành, đầu đàn sau 20 - 30 năm. Cùng với quy hoạch tổng thể, phân hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ KHXH&NVQS, cần chọn những đồng chí có phẩm chất, năng lực tiêu biểu để đề bạt giữ chức chủ nhiệm, phó chủ nhiệm bộ môn, trưởng phó các ban KHXH&NV ở các học viện, trường đại học, viện nghiên cứu. Thông qua công tác chủ trì bộ môn và các ban chuyên ngành KHXH&NV để lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí nguồn dự bị kế cận và kế tiếp chủ trì các khoa, viện, ngành KHXH&NVQS.
Ba là, quy hoạch đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS phải trên cơ sở chuẩn hóa hệ thống chức danh chuyên môn kĩ thuật, học hàm, học vị, phân định rõ hướng chuyên sâu để đào tạo chuyên gia phù hợp với sở trường, sở đoản của mỗi cán bộ. Việc dựa chắc vào tiêu chuẩn cán bộ, các quy định của Đảng, Nhà nước, quân đội về các chức danh, danh hiệu cần cụ thể hóa thành những yêu cầu, tiêu chí cụ thể về phẩm chất, năng lực, tài, đức, thời gian công tác, tích lũy kiến thức, trình độ đào tạo, chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học... Đây là cơ sở để định hướng cho mọi người rèn luyện phấn đấu; đồng thời, làm “mực thước” để đánh giá và sử dụng cán bộ, đảm bảo khách quan, công bằng. Quá trình xây dựng quy hoạch, phân hướng chuyên môn để đào tạo chuyên sâu, phát triển thành chuyên gia đối với cán bộ KHXH&NVQS cần phải linh họat, đồng thời tuân thủ chặt chẽ những quy định của trên về quy hoạch cán bộ chủ trì, phải dựa chắc vào  phẩm chất và năng lực và những đóng góp của cán bộ, sự tín nhiệm của tập thể nhà khoa học đối với họ để xây dựng một số nhà KHXH&NVQS đầu ngành, đầu đàn.
Bốn là, xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS phải thật sự dân chủ, khách quan với biện pháp đồng bộ, nhất quán. Kết hợp đào tạo tại trường với bồi dưỡng tại khoa, đi dự nhiệm, qua các lớp tập huấn trong và ngoài quân đội. Đối với cán bộ khoa học trẻ cần chú trọng bồi dưỡng thực tế, coi đây là chương trình bắt buộc trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS, là điều kiện để cán bộ có vốn sống thực tiễn, hiểu biết đời sống bộ đội, thực hiện tốt phương châm gắn lý luận với thực tiễn, có như vậy kết quả nghiên cứu khoa học, những tham mưu đề xuất của họ mới trúng, đúng, sát thực tế và hữu dụng. Đồng thời phát huy vai trò tự đào tạo, tự bồi dưỡng, rèn luyện của đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS.
Thứ ba, thực hiện tốt chính sách đối với đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS, nhất là chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, chế độ nghỉ phép, chế độ lương, chế độ quân hàm phụ cấp trách nhiệm, chế độ khen thưởng và các chế độ khác. Trong đó cần có chính sách thu hút học sinh giỏi thi khối C và khối A vào Trường Sĩ quan Chính trị để đào tạo chính trị viên và giảng viên KHXHNVQS; đồng thời, có chính sách hấp dẫn để thu hút các học viên, sinh viên tốt nghiệp loại giỏi và giữ gìn giảng viên giỏi, cán bộ có năng lực, phẩm chất tốt để phát triển chuyên ngành này. Thực tế chỉ ra rằng, những sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, có phẩm chất đạo đức tốt, nếu tạo điều kiện cho họ rèn luyện phấn đấu thì họ sớm trưởng thành, chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học thường có tính vượt trội so với những người có học lực khá. Vì vậy, cần tạo ra lực hút hấp dẫn để động viên, cổ vũ, tạo điều kiện cho những người giỏi phát triển nhất là tham gia các công trình, đề tài khoa học lớn và thực hiện các luận án tiến sĩ. Đối với một số cán bộ khoa học có học vị, học hàm và chức danh nhà giáo nhưng đã hết tuổi phục vụ quân đội theo cấp bậc quân hàm thì cần có chính sách phù hợp để họ tiếp tục phục vụ trong quân đội chuyên trách thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng đội ngũ kế cận kế tiếp trên cơ sở sự tự nguyện của từng cán bộ, điều kiện sức khỏe cho phép và nhu cầu sử dụng cán bộ của các khoa và các ban chuyên ngành. Một trong những điều kiện để xây dựng cán bộ KHXH&NVQS hiện nay là quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất, kĩ thuật, cung cấp thông tin và đảm bảo phương tiện, điều kiện làm việc cho cán bộ KHXH&NVQS.
Tóm lại, đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ quân đội nhân dân Việt Nam, là những cán bộ, sĩ quan có phẩm chất, năng lực nghiên cứu khoa học, giảng dạy và quản lý khoa học, được đào tạo theo tiêu chuẩn chức danh và bố trí phù hợp với cương vị đảm nhiệm. Họ là tài sản quý của quân đội và quốc gia. Vì vậy, quan tâm chăm lo và phát triển đội ngũ cán bộ KHXH&NVQS không chỉ là yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách trong xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam  cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới mà còn góp phần xây dựng và phát triển chuyên ngành KHXH&NV quốc gia. Đây là cơ sở, nền tảng để bổ sung phát triển và hoàn thiện  cương lĩnh, đường lối, chiến lược và sách lược của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước trong thời kì mới./.