Thứ Hai, 6 tháng 10, 2014

Tự do báo chí ở Việt Nam - Sự thật khách quan cần tôn trọng



Tự do báo chí ở Việt Nam khác gì tư do báo chí ở Mỹ?
 Trên phương diện pháp lý, tất cả các bản Hiến pháp của nước ta từ trước đến nay đều có những quy định về tự do ngôn luận, tự do báo chí và khẳng định đây là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, của mọi công dân. Ở mỗi bản Hiến pháp, nội dung này được kế thừa và phát triển phù hợp từng điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta.
Hầu hết các bộ, ban, ngành, đoàn thể từ trung ương đến địa phương, các giai cấp, giai tầng, các hội nghề nghiệp, các giới, các tôn giáo lớn, các thành phần trong xã hội đều có tờ báo của mình.
Tính đến tháng 2/2013, cả nước có 812 cơ quan báo in với 1.084 ấn phẩm, trong đó 197 cơ quan có báo (gồm 84 báo chí Trung ương, 113 báo địa phương); 615 cơ quan có tạp chí (488 tạp chí Trung ương và 127 tạp chí địa phương). Toàn quốc có 67 đài phát thanh-truyền hình Trung ương và địa phương; trong đó có 2 đài quốc gia, 1 đài truyền hình kỹ thuật số, 64 Đài phát thanh-truyền hình cấp tỉnh, 172 kênh chương trình phát thanh và truyền hình quảng bá (99 kênh truyền hình, 73 kênh phát thanh). Ngoài hệ thống truyền hình quảng bá, hệ thống truyền hình trả tiền ở nước ta phát triển mạnh bằng nhiều loại công nghệ truyền dẫn như cáp, vệ tinh, số mặt đất và đang bước đầu thử nghiệm công nghệ IPTV.
Trong lĩnh vực thông tin điện tử, cả nước có 74 báo, tạp chí điện tử, 336 mạng xã hội, 1.174 trang thông tin điện tử tổng hợp. Hội Nhà báo Việt Nam quản lý hơn 19.000 hội viên; trong đó gần 17.000 nhà báo đã được cấp thẻ hành nghề đang làm việc tại hàng trăm cơ quan báo chí từ trung ương đến địa phương, luôn khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để mọi nhà báo hoạt động tự do, sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật.
Ở Việt Nam, báo chí đã thật sự là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội, nghệ nghiệp; là diễn đàn và công cụ quan trọng bảo vệ lợi ích và quyền tự do của các tầng lớp nhân dân. Mọi người dân đều có quyền đề đạt nguyện vọng, phát biểu và đóng góp ý kiến trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, trong đó có báo chí. Đồng thời, khi tham gia sinh hoạt, hoạt động ở tổ chức nào, họ đều có ấn phẩm báo chí của tổ chức đó nhằm đáp ứng mọi nhu cầu và bảo đảm quyền được thông tin của mình. Chính vì lẽ đó, đông đảo các giai cấp, giai tầng xã hội ở Việt Nam tự thấy không có nhu cầu xuất bản báo chí tư nhân.
Các cơ quan bộ, ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức cung cấp thông tin cho báo chí về hoạt động của cơ quan mình theo từng tháng và ít nhất ba tháng một lần tổ chức họp báo. Ngoài ra, Quy chế còn nêu rõ người có quyền phát ngôn có trách nhiệm phát ngôn và cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho báo chí trong 3 trường hợp đột xuất, bất thường sau: một là, khi thấy cần thiết phải thông tin trên báo chí về các sự kiện, vấn đề quan trọng nhằm cảnh báo kịp thời và định hướng dư luận; hai là: khi cơ quan báo chí hoặc cơ quan chỉ đạo, quản lý Nhà nước về báo chí có yêu cầu phát ngôn hoặc cung cấp thông tin về các sự kiện, vấn đề thuộc phạm vi quản lý của cơ quan; ba là: khi có căn cứ cho rằng, báo chí đăng tải thông tin sai sự thật về lĩnh vực, địa bàn do cơ quan mình quản lý để yêu cầu cơ quan báo chí đó phải đăng tải ý kiến phản hồi, cải chính theo quy định của pháp luật.
Thực tiễn ngày thêm sáng tỏ rằng, ở Việt Nam, đã thực sự có tự do ngôn luận, tự do báo chí trên cơ sở từng nhà báo thực hiện đúng pháp luật, nêu cao trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của người cầm bút trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu ai đó cố tình lợi dụng dân chủ, tự do ngôn luận, tự do báo chí để công khai chống Đảng, Nhà nước, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc đều bị xử lý bình đẳng, nghiêm minh bằng hành chính hoặc bằng pháp luật. Điều này là hiển nhiên và không có gì khác biệt so với bất cứ một quốc gia độc lập có chủ quyền nào!./.

Như thế nào là tự do báo chí?



Sự thật tự do báo chí (TDBC) ở Mỹ như thế nào? Từ Hiến pháp đến thực tế về vấn đề tự do báo chí ở Mỹ thể hiện ra sao?
Tự do báo chí là vấn đề lúc nào cũng nóng hổi, bức xúc, được nhiều người quan tâm và quan tâm từ các phương diện khác nhau. Vì báo chí thể hiện mạnh mẽ nhất sức mạnh xã hội của tự do ngôn luận và tự do tư tưởng; là hệ thống phương tiện hữu dụng nhất trong việc thể hiện quyền lực và sức mạnh chính trị - xã hội mà các giai cấp luôn tìm cách nắm giữ và chi phối.
Gần đây, một số người cho rằng, tự do báo chí ở Mỹ như là một mẫu hình, thậm chí là hình tượng duy nhất có. Họ một mực ca ngợi tự do báo chí ở Mỹ như một hình mẫu có một không hai. Vậy sự thật tự do báo chí (TDBC) ở Mỹ như thế nào?
Điều này, cần nhìn nhận: Tự do báo chí Mỹ nhìn từ Hiến pháp Mỹ sẽ rõ.
Nước Mỹ thời kỳ thuộc Anh, báo chí phải được cấp phép và chịu sự kiểm duyệt gắt gao trước khi xuất bản. Hiến pháp Mỹ được ban hành năm 1787 có điều khoản về tự do báo chí.
Nhưng năm 1791, Quốc hội Mỹ ban hành “Đạo luật về quyền con người” (Bill of Rights) bao gồm 10 điều khoản bổ sung, sửa đổi của Hiến pháp 1787 (còn gọi là 10 Tu chính án).
Trong Tu chính án lần thứ nhất (Điều bổ sung, sửa đổi) “Quốc hội sẽ không ban hành một luật nào giới hạn quyền tự do ngôn luận hay quyền TDBC của công dân…”. Cho nên, không ít người cứ viện dẫn vào điều bổ sung này mà nói rằng, TDBC ở Mỹ là không giới hạn. Sự thật không phải như vậy.
Năm 1787, Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson, người soạn thảo chính bản Tuyên ngôn độc lập Mỹ, đã kiên quyết ủng hộ việc giám sát chặt chẽ của báo chí để nó không gây tổn hại đến lựoi ích quốc gia.
Ông khẳng định: Báo chí được chính quyền bảo vệ, và nó chịu trách nhiệm giám sát hoạt động của chính phủ.
- Quốc hội và Tòa án Tối cao Mỹ đã ban hành nhiều văn bản điều chỉnh quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí.
Năm 1798, Quốc hội Mỹ đã thông qua “Đạo luật Phản loạn,” quy định: “việc viết, in, phát biểu hay phổ biến… mọi văn bản sai sự thực, có tính chất xúc phạm hay ác ý chống chính quyền đều là tội”.
Bên cạnh đó, Điều 2385, Chương 115 - Bộ luật Hình sự Mỹ, nghiêm cấm mọi hành vi “in ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hoặc bạo lực”.
Cũng theo Hiến pháp Mỹ thì Tòa án tối cao được phép đưa ra những trừng phạt pháp lý khi phát hiện báo chí có hành vi phá hoại, lăng nhục, vu khống, xúc xiểm nhà nước, xã hội và cá nhân.
Sau đó, các bang cũng ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều phối tự do thông tin báo chí. Nếu xét về mặt ngôn từ, Hiến pháp Mỹ chỉ cấm Quốc hội liên bang chứ không cấm chính quyền các bang ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có khả năng hạn chế quyền tự do báo chí.
Mặt khác, trong khi xử các vụ án liên quan đến báo chí, Tòa án Tối cao Mỹ thường đưa ra các phán quyết cụ thể, những phán quyết ấy có giá trị pháp lý và bắt buộc thực thi trong các trường hợp tương tự.
Kể từ năm 1787, tòa án tối cao và chính quyền các bang đã ban hành hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật làm công cụ điều phối tự do thông tin báo chí, chứ không phải tự do vô hạn độ, tự do hoàn hảo như một số người lầm tưởng.
Điều này đúng với nguyên lý cơ bản mà Các Mác đã nêu ra cách đây hơn trăm năm, rằng không nên bàn đến có hay không có TDBC; TDBC bao giờ cũng có. Vấn đề là tự do cho ai và tự do để làm gì. Đến nay, luận điểm này vẫn giữ nguyên giá trị. Bởi vì, trong xã hội có giai cấp và còn sự khác biệt về lợi ích nhóm, báo chí luôn thuộc về một giai cấp nhất định... Đó là vấn đề có tính quy luật đối với mọi chế độ xã hội, không kể đó là nước phát triển hay nước đang phát triển, nước giàu hay nước nghèo.
- Ở Mỹ, chính quyền sẵn sàng can thiệp trừng phạt nếu báo chí vi phạm vào các 9 lĩnh vực sau đây:
1). Báo chí đăng bài viết có phương hại đến nền an ninh quốc gia; 2). Báo chí đăng bài viết tán trợ gián tiếp xúi giục bạo động gây bất ổn xã hội; 3). Báo chí đăng bài viết miệt thị và kỳ thị tôn giáo và chủng tộc; 4). Báo chí đang bài viết bôi nhọ cá nhân hay một tập thể; 5). Báo chí đăng bài viết xâm phạm vào đời tư của một cá nhân; 6). Báo chí đăng bài viết có ảnh hưởng xấu cho xã hội; 7). Báo chí đăng bài viết gây một nguy hiểm rõ ràng và tức thời cho cộng đồng; 8). Báo chí đăng bài viết với ngôn ngữ thô tục, 9). Báo chí đăng bài viết gây công phẫn dư luận. Ở Mỹ, tự do ngôn luận, báo chí đều trong khuôn khổ pháp luật.
Báo chí ra đời do nhu cầu phát triển nội tại của một chế độ chính trị-xã hội;  báo chí chuyển tải tâm tư, nguyện vọng của mình trước những vấn đề mà cả xã hội cùng quan tâm.
Trong một chế độ chính trị có Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật thì mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội phải tuân theo pháp luật. Vì vậy, hoạt động báo chí không thể nằm ngoài yêu cầu đó. Nhưng pháp luật trong chế độ tư bản là sự thể hiện ý chí của giai cấp tư sản. Họ sử dụng bộ máy nhà nước để duy trì trật tự xã hội vì lợi ích của giai cấp tư sản chiếm số ít trong dân cư. Vì vậy, không thể có tự do ngôn luận, tự do báo chí thuần túy nằm ngoài sự kiểm soát của nhà nước tư sản. Cần khẳng định rằng, muốn có tự do báo chí theo nghĩa chân chính, phải trên nền tảng một xã hội dân chủ; mọi hoạt động của báo chí phải phục vụ lợi ích của đông đảo nhân dân.
Không thể có tự do báo chí trong một xã hội độc tài, phát xít, chuyên quyền, độc đoán. Những kẻ đóng cửa tất cả các tờ báo tiến bộ chống phát xít (như chủ nghĩa phát xít Đức ở châu Âu) thì không bao giờ có tự do báo chí, tự do ngôn luận vì lợi ích chính đáng của nhân dân.
Trong xã hội tư bản nói chung, ở Mỹ nói riêng, báo chí hoạt động trong môi trường của pháp luật tư sản. Cái mà họ gọi là “tự do báo chí” đã bị cắt xén để phục vụ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Hiến pháp của các bang, việc truy tố đối với tội lạm dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí cũng được coi là hợp pháp. Điều đó cho thấy, không một quốc gia nào trên thế giới, kể cả ở Mỹ, coi quyền “tự do báo chí”, “tự do ngôn luận” là tuyệt đối./.

Vẫn là chiêu trò chống Đảng lãnh đạo Quân đội



Trong nhiều năm nay và gần đây, lại rộ lên câu chuyện đòi “phi chính hóa” quân đội. Các thế lực thù địch tự cho mình “tư cách là một người Việt Nam có một chút ưu tư về vận nước, về tiền đồ của dân tộc, về tương lai của con cháu chúng ta sau này”, hòng lấy lòng và tác động vào quân đội bằng nhiều hình thức, thủ đoạn khác nhau; đáng chú ý là phát tán các dạng bài viết, thơ ca, hò vè gửi “Tâm thư dân Việt gửi các anh Bộ Đội, Công An”[1]; “tướng lãnh, sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ trong quân đội Nhân Dân Việt Nam”[2]. Chúng biện luận rằng:

- “Nói đến lòng trung thành thì QĐND có bổn phận duy nhất là trung thành với Tổ quốc và dân tộc đó là nguồn gốc của mình. Chính nhờ bản chất này mà quân đội trường tồn với Tổ quốc trong lúc các tổ chức khác như chế độ, nhà nước, đảng phái, hội đoàn... có thể đổi thay hay biến mất. Đó là lý do tại sao trong lúc các chế độ cộng sản… sụp đổ nhưng lực lượng quân đội vẫn tồn tại trong lòng dân tộc của những quốc gia này”.
- “Dân tộc ta không có lý do gì để tiếp tục đi theo con đường mà loài người đã chối bỏ. QĐND không có lý do gì phải vì nó mà hy sinh. Karl Marx, Lenin, Stalin là người Đức, người Nga họ không phải là tổ tiên, ông bà, cha mẹ của chúng ta, họ chưa bao giờ rụng một sợi lông, nhỏ một giọt máu cho dân tộc ta, tư tưởng của họ đã bị ngay chính nhân dân của họ đào thải, vất vào sọt rác, thì tại sao chúng ta phải tôn thờ họ, phải lấy tư tưởng của họ làm kim chỉ nam để xây dựng đất nước như đảng cộng sản đã làm từ trước đến nay?”
- “Cộng sản chỉ là một tổ chức chính trị của một nhóm người nào đó, vào một giai đoạn nào đó trong quá trình sinh tồn của dân tộc như tất cả các tổ chức khác trong xã hội”; “Nghị Quyết 1481 của Hội Đồng Châu Âu đã lên án đối với chủ nghĩa cộng sản”; “Sinh mệnh của QĐND không thể gắn liền với sự sống chết của đảng cộng sản”... Từ đó, chúng đưa ra “Con đường duy nhất QĐND phải đi là:
1- Trở về với vị trí đích thực của mình là quân đội của nước Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, chỉ trung thành với tổ quốc và nhân dân thay vì quân đội của đảng cộng sản, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao-Hồ. 2- Trở về với trách nhiệm thiêng liêng của mình là bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân thay vì bảo vệ đảng cộng sản và quyền lợi của đảng”.
Nhân kỷ niệm 40 năm Ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, 39 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng tập trung xuyên tạc bản chất, nội dung Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng. Trong bài: “Đảng cộng sản lừa gạt QĐND như thế nào?”[3], chúng viết: 1- Giai đoạn 1 (1944 - 1954 / Chiến tranh chống Pháp), lợi dụng lòng yêu nước của QĐND để xây dựng chế độ cộng sản tại miền Bắc Việt Nam; 2- Giai đoạn 2 (1959 - 1975 / Nội chiến Nam Bắc Việt Nam), lợi dụng lòng yêu nước của QĐND để phát triển chủ nghĩa cộng sản cho Liên Sô và Trung Quốc theo tinh thần Quốc tế cộng sản; 3- Giai đoạn 3 (1978-1989 / Chiến tranh Việt Nam Campuchia và Việt Nam Trung Quốc), sử dụng QĐND để giải quyết sự xung đột quyền lực giữa các đảng cộng sản Việt Nam, Campuchia, Trung Quốc và Liên Xô”... Cuối cùng, chúng đặt câu hỏi: “QĐND là của dân hay của đảng? Đó là câu hỏi mà Tổ Quốc và nhân dân Việt Nam đang chờ quý vị trả lời!”…
Trả lời ư? Trước hết hãy nhìn cho kỹ đất nước, con người Việt Nam và sự thật đổi mới gần 30 năm ở đất nước này xem nó là thật hay giả. Và quan trọng hơn, ai đã và đang được nhân dân tôn vinh, trao cho sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam? Ai đã và đang đứng ra bảo vệ nền hòa bình, độc lập, tự do mà nhân dân ta đã giành lại được? Lịch sử 70 năm của Quân đội nhân dân Việt Nam có đầy đủ sức nặng và sự thuyết phục để bác bỏ mọi điều phi lý, nhảm nhí mà bọn người xấu đang bịa đặt ra./.


[1] Dân Việt, Tâm thư dân Việt gửi các anh Bộ Đội, Công An, danlambaovn,
[2] Lê Dủ Chân, Quân đội Nhân dân, của dân hay của đảng, danlambaovn,
[3] Lê Dủ Chân, Đảng cộng sản lừa gạt QĐND như thế nào? danlambaovn, 04/18/2014

Không nên can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam



Lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, tự do ngôn luận, các thê lực thù địch đang ra sức xuyên tạc sự thật, bôi đen thành quả cách mạng và lôi kéo các tổ chức phi chính phủ, các nước phương Tây can thiệp vào công việc nội bộ của ta.
Trước phiên điều trần của Việt Nam tại Ủy ban Nhân quyền LHP sẽ tổ chức vào tháng 6/2014, cùng việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoa DH 981 trong thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, các tổ chức, cá nhân nhân danh đấu tranh cho “dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo” hoạt động ráo riết, táo bạo, công khai hơn, với sự tham gia ngày càng sâu của các tổ chức phi chính phủ ở phương Tây. Các Tổ chức “Xã hội Dân sự” tham gia tổ chức và tường trình trong buổi hội thảo: Tiến trình kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR): Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế”[1]. Chúng ngang ngược khiêu khích chính quyền, cơ quan Nhà nước; phát tán “Thư ngỏ chung của 15 tổ chức dân sự độc lập Việt Nam” tới từng quốc gia, tổ chức quốc tế, với “đề nghị 10 chủ đề để các quốc gia thành viên giám sát đặc biệt nỗ lực của chính phủ Việt Nam”. Ngày 4/5/2014, chúng ra “Tuyên Bố Chung các tổ chức XHDS tại Việt Nam”[2]; lớn tiếng bác bỏ các kết luận của cơ quan có thẩm quyền đại diện cho LHQ và Nhà nước Việt Nam, biện minh cho sự tồn tại “hợp pháp” về tổ chức của chúng; hung hăng, thách đố chính quyền Việt Nam nếu không để chúng hoạt động thì chúng sẽ khởi kiện với các cơ quan có thẩm quyền trong nước và cả quốc tế.
Lợi dụng việc vô cớ tự thiêu của Thích Huệ Thâu từ năm 1994, mới đây là Lê Thị Tuyết Mai (23/5/2014) trước Hội trường Thống nhất, chúng ra sức tán dương đó là: Ngọn Đuốc Bình Minh”[3], nhằm “phản đối Nhà cầm quyền Xã hội Chủ nghĩa đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất”, hô hào dân chúng “chống Trung quốc xâm lược thềm lục địa Việt Nam”; yêu cầu dư luận tuyên dương “tâm gương yêu nước” đó, và soi rõ sự “PHI NGHĨA, BẤT CHÍNH” của Đảng, Nhà nước ta.
Chúng mơ tưởng, tạo dựng và tuyên truyền cho cái gọi là “Cách mạng Dân chủ Việt Nam”[4]. Bên cạnh việc huyễn hoặc về “thời điểm” nổ ra “cách mạng” ở nước ta, chúng còn không ngừng hô hào “thay đổi tư duy” chính trị với: “mục đích chính là “xóa bỏ độc đảng độc tài” chứ không phải không chấp nhận “sự hiện diện của đảng cộng sản trong sinh hoạt chính trị xã hội”; mà “mục tiêu hàng đầu” là vận động sự nổi dậy của người dân; tầng lớp trí thức được coi là “thành phần cốt cán của phong trào”; “Thành phần tiến bộ trong đảng cộng sản Việt Nam… có khả năng làm cho chế độ thay đổi một cách nhanh chóng, tương đối ổn định”; phương pháp tiến hành là tổ chức thành hai lực lượng, nổi lên là quần chúng nhân dân và cán bộ, đảng viên trong Đảng. Mục đích cuối cùng như chúng xác định là thay đổi chế độ bằng “Một cuộc chính biến chính trị phát xuất từ trong nội bộ đảng cộng sản; Một cuộc đảo chánh quân sự phát xuất từ Quân Đội”; nếu hai trường hợp trên không xảy ra thì “Một cuộc xuống đường tổng nổi dậy của toàn dân tại Hà Nội, Sài Gòn và trên cả nước”.
 Rõ ràng, chỉ có những người luôn luôn suy nghĩ những điều phi lý mới cả gan làm những điều sai trái. Đã là những điều sai trái thì không những đã vi phạm luật pháp mà nhơn thế còn vi phạm đạo lý làm người. Sống như vậy, làm những điềi ác như vậy, thử hỏi có nên không?!


[1] Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, mangluoiblogger.blogspot.com,
[2] Tuyên Bố Chung các tổ chức XHDS tại Việt Nam ngày 04.05.2014, http://www.chuacuuthe.com, 04.05.2014
[3]  Thi Vũ, Hai bài thơ cho hai Người Tự Thiêu vì lòng Từ Bi, danlambaovn.blogspot.com,  
[4] Lê Dủ Chân, Một vài suy nghĩ về Cách mạng Dân chủ Việt Nam, danlambaovn.blogspot.com,  

Đã phi lý lại còn đóng giả “nhân văn, nhân đạo”



Gần đây, có một số bài viết có tính chất xuyên tạc, phủ định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đáng chú ý có bài “Hòa giải với ai? Cách nào?”[1]. Bọn người này cho rằng, “quá muộn để nói chuyện hòa giải cho hai đối tượng này (người Việt Quốc Gia và Người Việt Cộng Sản) vì hiện nay chẳng còn một người Cộng Sản nào ở Viêt Nam cả. Có chăng chỉ còn những kẻ mượn danh Cộng Sản để bám lấy quyền lực và lợi ích phe nhóm mình, những kẻ độc tài muốn được độc quyền thống trị hòng thoải mái vơ vét, và những kẻ cơ hội đang “đục nước béo cò”. “Hòa giải giữa người Việt trong nước và người Việt hải ngoại. Hai đối tượng này chẳng có hiềm khích gì với nhau, bằng chứng là hàng chục tỷ đô Việt Kiều gửi về nước và hàng trăm ngàn người về thăm bà con ở quê hương đã chứng minh điều đó. Đây cũng không phải là đối tượng cần hòa giải”. “Hòa giải giữa những người đang nắm quyền lực nhân danh Đảng Cộng Sản và tất cả tầng lớp nhân dân chịu sự ảnh hưởng bởi những chính sách của nhóm người này, bao gồm cả Người Việt Trong Nước và Người Việt Hải Ngoại. Đây là hai đối tượng đã và đang có rất nhiều mâu thuẫn với nhau rất cần được hòa giải”, v.v.. Đọc những điều chúng viết ở trên mà tôi trích lại, chắc bạn đọc thấy nó phi lý, nhảm nhí đến mức nào. Thôi khỏi phải bàn về điều phi lý ấy, xin hãy độc tiếp những điều duới đây, bạn đọc sẽ thấy chúng tinh quái đến mức nào.
Để thực hiện hòa giải, chúng đề xuất “lộ trình”: Bỏ điều 4 Hiến pháp; Thả hết tù nhân chính trị; Gọi Tàu là quân xâm lược thay vì là bạn 16 chữ vàng và 4 tốt. Người dân được tự do biểu tình chống Tàu; Sửa hiến pháp và mọi công dân đều có quyền bầu cử và ứng cử, có quyền lập hội; Đất nước phải cần có báo chí, đài phát thanh tư nhân; Luật pháp phải nghiêm minh trừng trị công an giết dân; Bồi hoàn đất đai, nhà cửa người dân theo đúng giá thị trường; Trừng trị những kẻ tham nhũng”[2]
Điều đáng bàn ở đây là, bọn người nêu trên chỉ là một nhóm, la số rất ít, thuộc loại “con sâu làm sầu nồi canh”. Chúng đã không hề đếm xỉa đến lịch sử dân tộc và cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân ta; chúng có mắt nhưng chưa nhìn thấy sự thật là để có được độc lập tự do, hạnh phúc, có được cuộc sống như ngày hôm nay, nhân dân, cán bộ, chiến sĩ quân đội, công an nhân dân đã phải chiến đấu, hy sinh như thế nào. Ở đất nước này, gần bảy triệu anh hùng, liệt sĩ, đồng bào ta đã hy sinh, chết chóc do hai cuộc chiến tranh xâm lược mà Pháp và Mỹ gây ra....
 Những gì có được của ngày hôm nay phải đổi bằng xương máu và mồ hôi, nước mắt của hàng chục triệu người con đất Việt. Vì vậy, bọn người chuyên buôn chuyện, bàn tán, nói những điều nhảm nhí trên thật đáng chê trách. Nói điều gì phải nên rung lưỡi bảy lần hãy nói. Đó là lời nhắc nhở của người xưa. Thiết nghĩ điều ấy mãi mãi đúng đối với bất cứ ai có lương tri, trách nhiệm với CON NGƯỜI VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM.


[1] Trần Đại Nam, Hòa giải với ai? Cách nào?, danlambaovn, 3/5/2014
[2] Ngọc Ẩn, Bằng cách nào CSVN hoà hợp & hòa giải dân tộc? danlambaovn.blogspot.com,

Điệp khúc chống phá chủ nghĩa xã hội, nghe mãi thật nhàm tai, càng căm ghét bọn người “ngớ ngẩn”



Lợi dụng việc Đảng ta đang đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm 30 năm đổi mới đất nước, chuẩn bị cho Đại hội XII, các thế lực thù địch cấu kết với bọn người bất mãn với chế độ ta đã và đang ra sức xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa xã hội trên thế giới và ở thành tựu đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gần 30 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bằng cách bóp méo, xuyên tạc lịch sử, bóp méo thành quả công cuộc đối mới và xây dựng chủ nghĩa xã họi của Việt Nam và cả tình hình ở Veneduela mới đây. Từ việc xuyên tạc “Tư tưởng chính trị Hugo Chavez Frias Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”, chúng kết luận: “thực tế đã chứng minh rằng không hề tồn tại Chủ Nghĩa Xã Hội ở thế gian này”[1]. Chúng bôi xấu: Cộng sản quốc tế là chiếc cối xay thịt vĩ đại nhất trong lịch sử của xã hội loài người và đảng cộng sản Việt Nam là một bộ phận của chiếc cối xay thịt”[2]; thành quả cách mạng Việt Nam trong chiến tranh chống xâm lược, đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sẽ đi đến nguy cơ “bắc thuộc ngàn năm”; và “Nguyên nhân của mọi nguyên nhân là do Hồ Chí Minh, du nhập lý tưởng cộng sản, chủ nghĩa xã hội vào Việt Nam”. Phải nói ngay rằng, những điều nhảm nhí trên không có gì mới, chỉ là cái điệp khúc được tua đi, tua lại nhiều lần, nghe đến phát chán. Bọn người xấu kia thật vô công dồi nghề, có mắt sao lại không nhìn thấy sự thật, có óc sao lại không suy nghĩ khi nói ra những điều bịa đặt, sai trái. Các người ơi, hãy nhìn cho kỹ lại mọi điều. Nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộc hòa bình, công lý trên thế giới ai cũng có hai con mắt và hàng tỷ người có lương tâm, trí tuệ, họ đều biết phải trái, đúng sai; không ai có thể áp đặt nhận thức cho họ đâu. Cho nên, chỉ có nói đúng sự thật, tôn trọng khách quan, nói đúng những gì đã và đang có ở Việt Nam thì mang danh con người mới đúng nghĩa, còn không hãy tự nghĩ xem mình thuộc giống gì?
Điều đáng buồn là một số người luôn tự cho mình là đọc C.Mác rất kỹ nhưng việc viết, nói ra lại không phải như vậy, để phủ nhận chủ nghĩa  xã hội, chúng cho rằng: “việc Karl Marx muốn xóa bỏ “quyền tư hữu” trong tiến trình xây dựng XHCN là muốn xóa bỏ bản năng gốc (sở hữu và tiêu diệt để sinh tồn) vốn vô cùng quan trọng của con người, đó là điều bất khả thi!”. Các “luận cứ” về “lý luận”, “thực tiễn” của chúng là: xã hội cộng sản “là một tổ chức xã hội “siêu đẳng” như xã hội của loài ong, loài kiến”; “những trùm cộng sản chính là những kẻ thể hiện mạnh nhất hai bản năng gốc của loài người như đã nói trên đó là SỞ HỮU và TIÊU DIỆT”; “nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là nền kinh tế thị trường định hướng theo “trận đánh với cối xay gió của Don Quixote”; và “Một lỗi lầm to lớn nhất của Marx là lấy sự bất bình thường làm bình thường, rồi tổng quát hóa cho lịch sử nhân loại”[3]. Điều đó cho thất dã tâm của chúng là xuyên tạc, bác bỏ học thuyết kinh tế của Mác, tung hô học thuyết kinh tế của Adam Smith, Keynes trong khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay.
Với ý thức hệ phản động và đối lập đó, chúng đi đến kết luận: “Chủ nghĩa hoang đường và không tưởng, một nhân vật nào đó đã nói “Nếu cho rằng thế kỷ XX đã đánh dấu sự phát sinh mạnh mẽ của chủ nghĩa cộng sản thì đầu thế kỷ XXI là ghi nhận rõ nét cái sự diệt vong của nó”. Điều mà không ai có thể chối cãi là sự sụp đổ của cả khối cộng sản Đông Âu cùng cái nôi sản sinh ra nó tại Liên Sô. Thế giới văn minh đã chẳng luyến tiếc gì khi tiễn một thứ chủ nghĩa điên cuồng và hoang tưởng đã gây biết bao thảm họa vào sọt rác của nhân loại một cách sáng suốt và dứt khoát”[4]. Tôi viết và trích lại những điều nêu trên là để mọi người nhìn rõ hơn bộ mặt thật của nhóm bọn người luôn tự chjo mình là thông thái, đọc và am hiểu chủ nghĩa Mác nhưng sự thực lại hoàn toàn không phải như vậy. Mục tiêu của họ là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, phủ nhận học thuyết Mác. Để làm việc ấy thì các chiêu bài mang tính điệp khúc nêu trên được lặp đi lặp lại để chống đối ta. Đó cũng là sự biểu hiện sự nghèo nàn của chúng./.


[1] Nguyễn Thu Trâm 8406, Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa - một di họa khôn lường, danlambaovn.blogspot.com, 24.3.2014
[2] Le Nguyen, Có không chủ nghĩa xã hội của thế kỷ 21?, danlambaovn, 19.3.2014
[3] Chu Chi Nam, Lý thuyết kinh tế của Adam Smith và John Maynard Keynes đã hết hiệu nghiệm? danlambaovn, 3/
[4] Nguyên Thạch, Đảng CSVN không còn đủ tư cách đại diện cho dân Việt Nam, danlambaovn, 17/5/2014

Hãy nhìn sâu vào thủ đoạn nham hiểm của hại dân, hại nước



Hơn hẳn trước đây, cái thời còn thô sơ, lạc hâu, giờ đây, các thế lực thù địch đã tinh quái hơn chúng ta tưởng. Chúngđã, đang và sẽ tiếp tục lợi dụng triệt để mạng internet, các trang mạng xã hội, facebook, i-phone nhắn, gửi, tuyên truyền, lôi kéo, dụ dỗ nhiều người cùng kết nối và tham gia vào các tổ chức và hoạt động tuyên truyền, kích động quần chúng biểu tình, gây bạo động, bạo loạn chính trị, tác động đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân; đặc biệt là chúng lợi dụng đồng bào đi theo đạo, tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vốn chưa có điều kiện hiểu sâu, hiểu kỹ nhiều điều về đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta để lôi kéo, dụ dỗ họ đi theo chúng, chống lại đường lối đổi mới ở Việt Nam.
Trước việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chúng tận dụng và khai thác triệt để các đài phát thanh và truyền hình nước ngoài, phản động quốc tế để tuyên truyền, gây dựng thanh thế, hô hào, kích động quần chúng nhân dân thể hiện tinh thần “yêu nước”, biểu tình gây mất ổn định an ninh, trật tự xã hội, nhằm mục tiêu chống phá Đảng, chống phá chế độ, cản trở chủ trưởng đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc lại nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, cản trở quá trình đổi mới của nhân dân ta.
Về thủ đoạn chống phá của chúng lại có thêm những chiêu thức mới, rất lắt léo, gian xảo, ác độc. Các thế lực thù địch dày công nghiên cứu, sưu tầm, tổng hợp, trích dẫn cắt xén các quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nhất là các văn kiện về chủ quyền, lãnh thổ có liên quan Việt Nam - Trung Quốc. Tận dụng triệt để những hạn chế trong báo cáo đánh giá, công bố của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, bộ ngành; khai thác triệt để thông tin sai trái, “lề trái”, đặc biệt là những kẻ đối lập, bất mãn, thù địch, các nhận định, đánh giá của các tổ chức “quốc tế” trên lĩnh vực “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, đời sống pháp luật… để xuyên tạc lịch sử tư tưởng, lịch sử truyền thống, thành quả cách mạng của dân tộc và chế độ ta; ra sức vu cáo, bác bỏ, xuyên tạc, phủ nhận lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương, chính sách, các quyết sách của Chính phủ, Nghị quyết của Quốc hội; bôi nhọ, nói xấu các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính quyền và quân đội. 
Chúng kêu gọi và công khai tổ chức cái gọi là “Hội thảo kinh nghiệm điều trần nhân quyền” với sự tham gia của đại diện các nước, các tổ chức quốc tế, cố tình, ác ý không thừa nhận những thành quả nhân quyền của Việt Nam, hòng chuẩn bị tiến công “dọn bãi” trước về tư tưởng, lý luận và sự ủng hộ của dư luận trước phiên điều trần tới đây của Việt Nam trước Ủy ban Nhân quyên quyền Liên hợp quốc.
Các lực lượng chống phá Việt Nam liên kết với nhau khá “nhịp nhàng” và có tổ chức chặt chẽ. Bên cạnh hoạt động của các bloger trên các trang mạng, các tổ chức có thâm niên thâm thù trước đây thì các tổ chức “xã hội dân sự” hoạt động rất táo bạo, công khai, có sự liên kết, kêu gọi sự ủng hộ của các tổ chức phi chính phủ, các quốc gia phương Tây. Các thành phần, lực lượng trong và ngoài nước tiếp tục kết nối chặt với những người bất mãn, cơ hội về chính trị, nhất là với một số “nhân sĩ”, “trí thức”, người có “uy tín”… cùng tiến công. Đặc biệt nguy hiểm là, chúng đã lợi dụng lòng yêu nước của quần chúng hay các cuộc biểu tình ôn hòa của quần chúng để gây rối, kích động gây rối, đập phá, cướp bóc tài sản của công dân, doanh nghiệp, gây mất ổn định, trật tự an toàn xã hội, cản trở sản xuất. Ngoài ra, chúng còn kích động và cổ vũ cho một số phần tử bất mãn lấy cớ “tự thiêu” phản đối chính quyền, kêu gọi các tổ chức nước ngoài can thiệp sâu vào nội bộ ta. Những hành vi ngang ngược, sai trái của các thế lực thù địch cần phải vạch mặt chúng để cho mộ người dân đều nhìn thấy rõ; có làm tốt điều ấy thì đồng bào, chiến sĩ cả nước mới có thêm ý chí, sức mạnh để chống quân thù. Lúc này, hỡi các đồng chí, xin hãy chắc tay súng và cũng xin vững chắc tay bút, hãy vạch mặt bè lũ phản quốc, và bọn hại nước hại dân đang cấu kết với các thế lực thù địch để chà đạp lên thành quả cách mạng của nhân dân ta. Nói là yêu Tổ quốc thì lúc Tổ quốc bị bọn người xấu tấn công mà không đứng lên đấu tranh chống lại chúng thì sự học hành, có chữ nghĩa của chúng ta phỏng có ích lợi gì cho Nhân dân, cho quốc gia dân tộc Việt Nam?!

Vong ân, bội nghĩa, phản bội quốc là tội vô cùng nặng



Ngày 1/5/2014 đã đi vào lịch sử cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam như một sự kiện nổi bật: Một lần nữa hàng trăm triệu người con yêu của đất Việt lại phải gồng lên bằng tất cả tinh thần và của cải, sức lực của mình để đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc do các thế lực bành trướng phương Bắc đơn phương hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương - 981 nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa của Việt Nam. Đó là một hành động ngang ngược, sai trái. Tôi vô cùng cảm kích khi thấy nhân dân cả nước đã đồng tâm, đồng lòng, kiên quyết phản đối quân bành trướng. Điều cảm kích hơn là, ngoài việc mở “mặt trận” trong nước chống quân bành trướng, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đồng thời mở “mặt trận quốc tế” đấu tranh bằng biện pháp hòa bình, ngoại giao và pháp lý cùng bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Hằng ngày, cũng như tôi, đồng bào cả nước đều hướng về Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông, lo lắng cho các chiến sĩ Cảng sát Biển, Kiểm Ngư, Hải quân đang phải đối mặt, giáp mặt chống quân ăn cướp. Điều đáng mừng là, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở đã vào cuộc cùng Nhân dân ta kịch liệt phản đối quân bành trướng đơn phương hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương - 981 nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa của Việt Nam.
 Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Phó Chủ nước Nguyễn Thị Doan, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Đại tướng Phùng Quang Thanh… tham dự nhiều hội nghị đối thoại, thượng đỉnh cấp cao quốc phòng, an ninh, kinh tế, thương mại ở khu vực và quốc tế, đã phát biểu tỏ rõ thái độ lên án hành động ngang ngược, sai trái, hiếu chiến, xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc trên Biển Đông; thể hiện rõ tinh thần kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền biển đảo, đấu tranh bằng biện pháp hòa bình của Việt Nam; kiên quyết giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự xã hội, xử lý nghiêm những người lợi dụng tình hình để phá hoại an ninh và xâm phạm lợi ích của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam…
Trong lúc nước sôi lửa bỏng, lẽ ra là những người Việt Nam, mang dòng máu “con cháu Lạc Rồng” lẽ ra phải đứng về phía Nhân dân ta chống quân bành trướng xâm lược; đằng này; một số người Việt Nam thật đáng trách vì họ đã “đổ thêm dầu vào lửa”, triệt để lợi dụng tình hình, câu kết với các thế lực thù địch, phản động trong nước và quốc tế, nhất là các tổ chức phản động người Việt ở trong và ngoài nước để đẩy mạnh các hoạt động chống phá toàn diện chế độ XHCN, Đảng, Nhà nước, các lực lượng vũ trang ta. Là một công dân Việt Nam. Tôi cực lực phản đối những hành động vi nhân tính của bè lũ bành trướng Trung Quốc; đồng thời kêu gọi tất cả những ai là người Việt Nam hãy quyay về cùng Nhân dân ta kiên quyết chống quân xâm lược. Xin đừng làm những điều sai trái. Tôi phản quốc là tội nặng nhất đấy.

Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014

ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN XÂM LƯỢC VIỆT NAM CỦA BỌN BÀNH TRƯỚNG TRUNG QUỐC



Sau khi chúng ta đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, không có kẻ thù nào dám đánh chúng ta; chỉ có những người nghĩ rằng, họ vẫn có thể đánh chúng ta và dám đánh chúng ta là những kẻ phản động theo tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc. Nhưng nhân dân Trung Quốc, hơn một tỷ người lại không nghĩ như thế và họ hoàn toàn không muốn như thế. Họ muốn yên ổn làm ăn, mong muốn có hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; không muốn con em của họ phải chết chóc vì chiến tranh. Hơn ai hết, nhân dân ta rất quý trọng hòa bình, mong muốn có hòa bình, được sống trong độc lập, tự do; ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới.
So với nhiều dân tộc khác, nhân dân ta đã chịu quá nhiều đau thương, tang tóc bởi hai cuộc chiến tranh hơn một trăm năm do thực dân Pháp và đế quốc Mỹ gây ra. Nhưng “cây muốn lặng mà gió chẳng muốn đừng”. Trong giới cầm quyền Trung Quốc, một bộ phận hiếu chiến, phản động, có tư tưởng bành trướng, có tham vọng làm bá chủ thế giới đã phớt lờ điều ấy; không thèm đếm xỉa đến nỗi đau của người khác, dân tộc khác. Họ ngấm ngầm chuẩn bị mọi mặt, chờ thời cơ để thực hiện “giấc mộng Trung Hoa” như một sản phẩm “độc chiêu” mang ý thức hệ “cha truyền con nối”. Họ không muốn để chúng ta yên; hoàn toàn không muốn chúng ta phát triển, lớn mạnh dưới sự “bảo trợ của Liên Xô” và các nước xã hội chủ nghĩa khác, đúng như những ngôn từ họ vẫn nói “dưới bầu trời này chỉ có người Trung Hoa là chủ, được quyền cai trị thế giới”. Điều đó cho thấy rằng, chừng nào còn tồn tại những kẻ phản động, bành trướng Trung Quốc thì chừng ấy, họ sẽ vẫn nuôi dưỡng và quyết tâm thực hiện mưu đồ thôn tính nước ta; từ chèn ép, áp đặt đến tấn công, lấn chiếm và tiến tới tước đoạt biển Đông cũng như đất liền của chúng ta.
Là một đất nước đất không rộng, người không đông, khoa học, kỹ thuật và công nghệ còn lạc hậu, kinh tế kém phát triển, nhưng nhân dân ta lại có một tài sản vô giá mà nước khác không có là lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc; không bao giờ chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù hung bạo nào, dù chúng có quân hùng, tướng mạnh, lắm tiền, nhiều của, vũ khí tối tân, hiện đại, tự xưng mình là có sứ mệnh đi “khai hóa văn minh”, “truyền bá tư tưởng nhân đạo” cho dân tộc khác. Lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm để dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh điều đó.
Vì vậy, khi thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên tấn công chúng ta ở Đà Nẵng, thì ngay lúc ấy, ông cha ta, không kể đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, đã dũng cảm đứng lên chống lại quân xâm lược và bè lũ tay sai, cứu nước, cứu nhà. Sau bao nhiêu năm “nếm mật nằm gai”, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân và quân đội ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Thế nhưng, đế quốc Mỹ đã hất cẳng Pháp, nhảy vào xâm lược nước ta và cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống quân xâm lược - tên đế quốc đầu sỏ đã kéo dài hơn 21 năm, làm cho gần 3 triệu chiến sĩ, đồng bào Việt Nam phải hy sinh, hàng vạn gia đình nhà tan, cửa nát.
Đất nước ta đã giành được độc lập, tự do bằng chính xương máu, nước mắt, mồ hôi và công sức của cả một dân tộc không sợ Mỹ, dám đánh Mỹ và biết thắng Mỹ. Điều này đã được cả thế giới thừa nhận: Trong thế giới hiện đại, chỉ có người Việt Nam là dám đấu tranh chống đế quốc Mỹ còn cả thế giới đều sợ Mỹ. Khi Trung Quốc giúp Bắc Triều Tiên bảo vệ sườn phía Bắc của họ và cuộc chiến này kết thúc, thắng lợi thuộc về phía Triều Tiên và những người “dang tay giúp họ” thì áp lực đặt lên Việt Nam. Những người có tư tưởng bành trướng trong giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã rất muốn Việt Nam chúng ta đi theo con đường của Triều Tiên, đứng hoàn toàn về phía họ, ủng hộ và tạo mọi điều kiện để họ “mở con đường xuống phía Nam”, làm bá chủ khu vực...
Những người có tư tưởng bành trướng trong giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã yêu cầu chúng ta chấp nhận để Trung Quốc “giúp chúng ta về mọi mặt”, kể cả trong kháng chiến và trong kiến quốc. Điều đó có nghĩa là, chúng ta phải cắt đứt mọi quan hệ với Liên Xô, không được nhận bất cứ thứ gì từ phía Liên Xô, kể cả viện trợ nhân đạo. Một trong những người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc có tư tưởng bành trướng đã nói thẳng thừng rằng, nếu Việt Nam tiếp tục theo Liên Xô để chống Mỹ thì sẽ phải tự lo liệu mọi thứ; Trung Quốc sẽ không giúp Việt Nam thêm một thứ gì nữa, kể từ sau khi Việt Nam đánh bại thực dân Pháp. Họ đã ra sức cản trở, gây áp lực đối với chúng ta để Việt Nam không thể chiến đấu chống Mỹ. Nếu chúng ta tiếp tục không “nghe lời khuyên” của họ, không chấp nhận sự “mặc cả” của họ thì họ “sẽ dạy cho chúng ta một bài học”.
Vào thời điểm chiến trường Điện Biên Phủ đi đến hồi kết, chúng ta chiến thắng như “chẻ tre”, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán, ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ để lập lại hòa bình ở Việt Nam, thì cũng chính vào thời điểm ấy, người đứng đầu Chính phủ Trung Quốc đã tạo cớ với nhiều lý do khác nhau, cố tình trì hoãn, làm khó cho chúng ta trong các lần đàm phán và chính con người này đã nêu quan điểm và đề nghị hội nghị các bên chia cắt đất nước ta làm hai phần Nam - Bắc. Một lần nữa, những người có tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc đã gây sức ép lên chúng ta, buộc chúng ta không được làm gì đối với miền Nam Việt Nam, dù biết nơi đó là máu thịt của chúng ta, là đồng bào, đồng chí ruột thịt của chúng ta. Giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc rất sợ Mỹ; không dám đụng đến Mỹ, dù họ luôn thừa nhận chính là họ là nước lớn, còn chúng ta chỉ là nước nhỏ, không thể đánh được Mỹ.
Khi chúng ta thực hiện chiến tranh du kích ở miền Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, đích danh người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã nói với các đồng chí trong Bộ Chính trị của chúng ta rằng, ngay lập tức, chúng ta phải chuyển hai tỉnh đã được Quân đội nhân dân Việt Nam giúp bạn giải phóng cho Chính phủ Viên Chăn, nếu không người Mỹ sẽ phẫn nộ, trả đũa, tiêu diệt hai tỉnh này; gây tổn hại đến Trung Quốc. Để bảo vệ bộ đội tình nguyện của chúng ta; ngay sau đó, Việt Nam đã phải làm việc với người Mỹ để giải quyết các vấn đề có liên quan đến sự kiện này. Người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc liên tục bức hiếp chúng ta bằng cách này, cách khác, buộc chúng ta phải làm các điều mà chúng ta không muốn làm; song đã buộc phải làm theo ý họ với hy vọng: tiếp tục giữ thế cân bằng trong quan hệ, làm những việc có lợi cho cách mạng Việt Nam; nhận được sự viện trợ của họ. Sau đó hai tỉnh này đã được chuyển giao cho Viên Chăn.
Tại cuộc gặp gỡ và làm việc với một số cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc thời đó, đồng chí Lê Duẩn đã đề nghị hãy để cho Lào được tiến hành chiến tranh du kích và một nhóm cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp đoàn cán bộ cao cấp của Việt nam đã đồng ý. Tuy nhiên, ngay sau đó, người đứng đầu tối cao của giới chóp bu ở Trung Quốc đã trì trích nhóm cán bộ cao cấp này vì đã chấp thuận đề nghị của chúng ta. Người đứng đầu tối cao Nhà nước Trung Quốc đã nói với chúng ta rằng, Việt Nam không được phát động chiến tranh du kích ở miền Nam để chống Mỹ vì Mỹ quá mạnh. Việt Nam phải nằm chờ trong một thời gian dài. Lúc đó, chúng ta buộc phải nghe theo giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc vì chúng ta rất nghèo, nếu không có Trung Quốc làm căn cứ, hậu thuẫn thì chúng ta không thể đánh Mỹ. Khi Ngô Đình Diệm kéo lê máy chém khắp miền Nam, gây nhiều tội ác cho đồng bào ta, buộc chúng ta phải đứng lên đấu tranh chống lại quân xâm lược và không “nghe lời Trung Quốc” thì họ đùng đùng nổi giận, đe dọa cắt đứt viện trợ cho chúng ta.
Một trong những nhân vật có uy tín trong giới cầm quyền có tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc đã nói với đồng chí Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng ta rằng: “Bây giờ sai lầm của đồng chí đã xảy ra rồi, đồng chí chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống”. Đó là áp lực mà giới cầm quyền chóp bu có tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc đặt lên chúng ta. Sau khi chúng ta chiến đấu hiệu quả, đột nhiên người đứng đầu tối cao của giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc lại có suy nghĩ mới: Vì Mỹ đánh Việt Nam, Trung Quốc sẽ đưa quân đội giúp chúng ta xây dựng đường sá. Mục tiêu chính của họ là tìm hiểu tình hình đất nước ta để sau này có thể tấn công chúng ta và mở rộng con đường xuống khu vực Đông Nam Á, độc chiếm biển Đông; ngoài ra không có lý do nào khác. Người đứng đầu tối cao của giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã ép chúng ta phải nhận 20.000 quân của ông ta để làm con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ nhưng Đảng, Nhà nước ta không chấp nhận vì biết rõ âm mưu, thủ đoạn muốn áp đặt sự thống trị của họ lên đất nước chúng ta; muốn ăn cướp nước ta từ lâu và đó là cơ hội để họ thực hiện âm mưu độc ác ấy, nếu chúng ta đồng ý, ngoan ngoãn làm theo ý họ sẽ mắc mưu của họ.
Sau khi đế quốc Mỹ đưa hàng trăm ngàn quân vào miền nam Việt Nam, chúng ta buộc phải phát động cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào Tết Mậu Thân năm 1968 để buộc Mỹ giảm leo thang, chặn đường chúng đánh phá ra miền Bắc. Nếu chúng ta không làm cho Mỹ giảm leo thang từng bước thì chúng ta sẽ thất bại vì lúc đó, chúng ta chưa đủ sức mạnh đẻ đánh lại chúng, tiêu diệt kẻ thù, giải phóng đất nước. Tuy đã phải trả giá đắt, song đế quốc Mỹ đã run sợ chúng ta, tình thế đã buộc đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán với chúng ta. Trong hoàn cảnh đó, Đại sứ Trung Quốc Hô Wei đã viết thư gửi đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và yêu cầu: Chúng ta không thể ngồi vào bàn đàm phán với Hoa Kỳ. Chúng ta phải để quân Mỹ vào miền Bắc Việt Nam và đánh nhau với Mỹ. Vì sao lại có câu chuyện ấy? Bởi vì, người Mỹ đã “móc ngoặc”, “thỏa thuận ngầm” với giới cầm quyền tối cao có tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc về những lợi ích mà họ sẽ được hưởng sau khi bọn bành trướng Trung Quốc nắm được quyền thống trị chúng ta một cách hoàn toàn.
Nhận rõ bản chất cuộc “mua bán” giữa hai bên Mỹ - Trung, chúng ta đã không làm theo yêu cầu của phía nào. Chúng ta tự quyết định con đường đi của riêng mình, vẫn quyết tâm “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”. Vì vậy, người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã nổi cơn thịnh nộ, ông ta đã thông báo cho phía Mỹ: “Nếu các ông không tấn công tôi, tôi sẽ không tấn công các ông; do đó, các ông có thể đưa bao nhiêu quân lính vào Việt Nam là tùy theo ý muốn của các ông”.
Người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã trao đổi nhiều điều “bí mật” với Mỹ và ép buộc chúng ta ngày càng trắng trợn, nhất là sau khi chúng ta giành thế chủ động trên chiến trường miền Nam. Lúc đó, người Mỹ nhận ra rằng, họ đã thua trận, ngay lập tức, họ đã sử dụng Trung Quốc như một “con bài che chắn” để tạo điều kiện rút quân “nhanh, gọn” ra khỏi miền Nam Việt Nam; không để quân Mỹ lún sâu vào sa lầy ở nước ta. Ních sơn và Kissingger đã đến Trung Quốc để thảo luận về vấn đề này. Mục đích của họ là giảm bớt thất bại của Mỹ ở Việt Nam và lôi kéo Trung Quốc đứng về phía Mỹ, chống Việt Nam và Liên Xô, các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Ngay sau đó, Thủ tướng Chính phủ Trung Quốc đã nói với đồng chí Lê Duẩn rằng, Việt Nam phải nghe theo ý kiến của Trung Quốc vì tình hình rất căng thẳng, ngặt nghèo. Nếu người Mỹ tức giận, có thể họ sẽ ném bom nguyên tử ở Việt Nam. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến Trung Quốc.
Thực hư còn nhiều điều chưa rõ nhưng chúng ta đã cân nhắc kỹ lưỡng và thẳng thừng bác bỏ điều ấy. Chúng ta đã quyết tâm đánh Mỹ, không hề run sợ trước sự đe dọa, khủng bố tinh thần rất hung hăng từ phía những người theo chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc. Chúng ta đã quyết tâm “dù có phải đốt cháy cả dẫy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập”. Mỗi cố gắng của quân và dân ta là để khắc phục sai lầm của người đứng đầu Chính phủ Trung Quốc vì đã chia cắt đất nước ta thành hai miền Nam Bắc tại Hội nghị Giơ-ne-vơ. Sau cuộc gặp gỡ giữa Ních sơn và Kissingger với giới cầm quyền chóp bu có tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc, Mỹ đã ráo riết tấn công chúng ta. Trong hoàn cảnh đó, người đứng đầu Chính phủ Trung Quốc đã mặc cả với đồng chí Lê Duẩn: nếu chúng ta đánh Mỹ thì Trung Quốc sẽ gửi thêm súng đạn, lương thực, thực phẩm cho Việt Nam. Tính hai mặt của Trung Quốc đã quá rõ ràng. Mọi động thái của giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đều muốn chúng ta suy yếu, nếu chúng ta muốn tồn tại thì buộc phải cầu xin họ giúp đỡ, từng bước phụ thuộc hoàn toàn vào họ, đi đến làm nô lện cho họ.
Nhìn lại lịch sử hiện đại cho thấy, nếu Liên Xô và Trung Quốc không có mâu thuẫn với nhau thì Mỹ đã không thể tấn công, xâm lược nước ta. Để chống Mỹ, chúng ta phải dựa vào Trung Quốc và các nước khác nhiều thứ. Lúc đó, hàng năm, nhân dân Trung Quốc đã cung cấp, viện trợ cho chúng ta khoảng 500 nghìn tấn lương thực, súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa kể đến viện trợ đôla. Phải thừa nhận rằng, nếu không có viện trợ ấy thì chúng ta sẽ vô cùng khó khăn. Để có được điều đó, mỗi năm Đảng ta phải cử vài đoàn cán bộ cấp cao đi Trung Quốc để thương thuyết với họ; nhờ họ tiếp tục viện trợ cho chúng ta đánh Mỹ. Trung Quốc đã ra điều kiện và gây áp lực cho chúng ta, buộc chúng ta phải xa lánh Liên Xô, cấm chúng ta không được đi với Liên Xô. Người đứng đứng đầu Chính phủ Trung Quốc thời đó đã nói với đồng chí Lê Duẩn: “Trung Quốc sẽ giúp đồng chí vài tỉ mỗi năm; đồng chí không thể nhận bất cứ thứ gì từ Liên Xô”. Đảng, Nhà nước ta đã không đồng ý điều đó vì muốn thắt chặt tình đoàn kết gắn bó giữa các nước xã hội chủ nghĩa; mong muốn Liên Xô, Trung Quốc - hai nước xã hội chủ nghĩa không mất đoàn kết, cùng giúp chúng ta đánh Mỹ.
Năm 1963, người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu có tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc đã gặp đồng chí Bí thư Trung ương Đảng ta và tuyên bố “Tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á”. Đặng Tiểu Bình cùng tiếp Đoàn cán bộ cao cấp của Đảng ta cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ yếu là vì nông dân nghèo trong tình cảnh khó khăn cùng cực”. Ngay sau đó, đồng chí Lê Duẩn đã nói với đồng chí Trường Chinh: “Anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á bây giờ đã rõ rồi”.
Người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã hỏi đồng chí Lê Duẩn: Lào có bao nhiêu cây số vuông đất? Đồng chí Lê Duẩn trả lời: khoảng 200 cây số vuông, Ông ta lại hỏi dân số của họ bao nhiêu? Khoảng 3 triệu. Đồng chí Lê Duẩn trả lời. Ông ta nói ngay rằng, như vậy là không nhiều. Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà. Ông ta lại hỏi có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan? Khoảng 5 trăm nghìn cây số vuông. Đồng chí Lê Duẩn trả lời. Ông ta lại hỏi có bao nhiêu người? Khoảng 40 triệu. Lúc đó, ông ta nói ngay rằng, tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500 nghìn cây số vuông nhưng có tới 90 triệu người, tôi cũng sẽ đưa một số người dân tôi tới Thái Lan. Ông ta muốn chiếm Lào, Thái Lan, đồng thời muốn chiếm tất cả các nước Đông Nam Á và đưa người dân của họ đến sống ở đó.
Quan điểm này của người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc bộc lộ rõ từ năm 1963. Để đối phó với Mỹ, trong giới cầm quyền và nhân dân Trung Quốc cũng có nhiều loại ý kiến khác nhau, Thủ tướng Trung Quốc muốn thành lập mặt trận liên minh với Liên Xô để chống Mỹ vì hai nước này đã có một hiệp ước hữu nghị từ tháng 2 năm 1950 nhưng quan điểm ấy đã bị người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc bác bỏ. Phải nói rằng, người kiên quyết nhất ra sức truyền bá, bảo vệ quan điểm bành chướng và cũng là người có tinh thần Đại Hán, muốn chiếm Đông Nam Á, chiếm đoạt biển Đông của chúng ta chính là người đứng đầu Trung Quốc. Tất cả các chính sách của Trung Quốc nhằm mở con đường xuống phía Nam đều do ông ta định ra. Khi chúng ta giải phóng miền Nam, một số cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc có đến chúc mừng chúng ta. Vì lý do này, họ bị quy kết là theo chủ nghĩa xét lại. Để chứng minh là mình không theo chủ nghĩa xét lại, số cán bộ này đã quay ngược 180 độ để tấn công Việt Nam một cách dữ dội và quyết liệt. Chiến tranh Biên giới Tây Nam và chiến tranh Biên giới Tây Bắc đều nằm trong sự tính toán ấy.
Sau khi đánh bại đế quốc Mỹ, chúng ta giữ lại hơn 1 triệu quân, các đồng chí lãnh đạo Liên Xô có hỏi chúng ta tại sao Việt Nam lại giữ lại một đội quân thường trực lớn như vậy. Đồng chí Lê Duẩn đã trả lời: Có lý do chính đáng, sau này các đồng chí sẽ hiểu. Lý do đó là gì? Là do mối đe dọa trực tiếp, rất nguy hiểm của giới cầm quyền phản động Trung Quốc theo chủ nghĩa bành trướng, kiên quyết chống đối Việt Nam, muốn thôn tính Việt Nam; muốn biến Việt Nam thành quận, huyện của họ.
Trong quá khứ, Việt Nam đã không sợ Mỹ và Trung Quốc. Trong hiện tại, Việt Nam vẫn không sợ Mỹ và không hề sợ bọn phản động bành trướng Trung Quốc. Giới cầm quyền phản động bành trướng ở Trung Quốc luôn ở thế phòng thủ và sợ chiến tranh, ngay cả 400 triệu người dân Trung Quốc đã không đọ sức nổi đội quân Nhật có 300 nghìn người. Khi bọn bành trướng Trung Quốc mang hàng trăm ngàn quân vào xâm lược nước ta năm 1979, chúng ta không ở thế thủ; kiên quyết chống trả họ, buộc họ phải lùi bước. Chỉ có chúng ta mới có thể làm được điều đó, còn Trung Quốc thì không thể, ngay cả khi họ lợi dụng tình hình thế giới, khu vực có nhiều bất ổn, rối ren, đã ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam; chúng không hề sợ họ, đã kiên quyết chống lại những kẻ xâm lược, bành trướng; kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Hiện nay, chúng ta chiến đấu chống quân bành trướng Trung Quốc về việc độc chiếm biển Đông dù còn nhiều khó khăn nhưng chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng. Nếu giới cầm quyền phản động ở Trung Quốc và phái tài phiệt ở Nga dù có thống nhất với nhau hoặc Trung Quốc và Mỹ “móc ngoặc với nhau”, cũng vẫn vậy. Chúng ta sẽ biết cách tự bảo vệ mình bằng chính lòng yêu nước, yêu Tổ quốc và sự dũng cảm, gan dạ và sáng tạo của chúng ta. Có thể sự cấu kết của các nước lớn vì lợi ích của họ ít nhiều sẽ gây tổn hại cho đất nước ta nhưng bài học lịch sử đã chứng minh rằng, chúng ta quyết tâm chống quân xâm lược đến cùng; biết đánh và biết thắng chúng trong mọi tình uống, dù đó là kẻ thù xâm lược nào. Việt Nam kiên quyết không để quân xâm lược bành trướng Trung Quốc thực hiện “giác mơ Trung Hoa”, độc chiếm biển Đông, không để chúng mượn đường mở rộng xuống phía Nam xâm lược các nước Đông Nam Á. Việc giới cầm quyền phản động theo chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc xâm lấn, muốn độc chiếm biển Đông không có gì là bất ngờ, mà là một tất yếu, thể hiện rõ âm mưu, thủ đoạn đen tối của họ là muốn làm bá chủ khu vực, tiến tới làm bá chủ thế giới, gạt Mỹ ra khỏi địa hạt châu Á - Thái Bình Dương, Đông Nam Á, từ nhiều năm nay. Điều đó là quá rõ ràng.
Vì vậy, chúng ta phải chuẩn bị cuộc chiến lâu dài, phải nhìn nhận cho rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của bọn bành trướng, phản động Trung Quốc: muốn độc chiếm biển Đông, chiếm đất và đưa người của họ xuống sống ở các nước Đông Nam Á; đồng thời, chế ngự sự phản công, “xoay trục của Mỹ”, vì lợi ích của họ; gây khó dễ cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước đây chúng ta đã không sợ Mỹ, không sợ bọn bành trướng xâm lược đến từ Trung Quốc thì nay, chúng ta quyết không sợ chúng. Cả thế giới sẽ ủng hộ chúng ta vì chúng ta đứng về phía chính nghĩa; chúng ta bị đe dọa, bị các nước lớn cậy thế ăn hiếp, bắt nạt. Chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục có phương cách đúng đắn, sáng tạo để đánh thắng quân xâm lược dù là nước ta còn nghèo. Vì vậy, để chống lại quân xâm lược bành trướng Trung Quốc, chúng ta không chỉ biết có chiến đấu mà phải biết làm cho chúng ta mạnh hơn nữa. Quân với dân một ý chí; toàn dân, toàn quân đoàn kết chặt chẽ bên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nhà nước ta để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 Hiện nay, âm mưu, thủ đoạn của giới cầm quyền chóp bu phản động, bành trướng ở Trung Quốc đã hiện nguyên hình, lộ rõ thông qua cuộc chiến tranh biên giới phía Nam, phía Bắc năm 1979 và hạ đặt giàn khoan HD 981 trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Chúng ta đồng tâm, nhất trí, kiên quyết chống bè lũ phản động Bắc Kinh, bọn bành trướng xâm lược đến từ Trung Quốc và các nước khác; chúng ta không chống nhân dân Trung Quốc và tha thiết muốn đoàn kết với họ, với nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới vì lẽ phải, công lý để chống lại mọi bất công, bất bình đẳng; bảo vệ hòa bình, độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.
 Vì vậy, chúng ta hãy kiểm soát tình hình chặt chẽ, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và không bao giờ lơi lỏng sự cảnh giác trước bất cứ âm mưu, thủ đoạn vô cùng thâm hiểm của quân xâm lược. Đối với chúng ta, Tổ quốc là thiêng liêng, bất khả xâm phạm./