Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG TRƯỚC YÊU CẦU NHIỆM VỤ MỚI



Hơn 80 năm qua, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đưa nước ta vững bước đi len chủ nghĩa xã hội.
    Trước sự biến động dữ dội của tình hình chính trị thế giới và xu thế toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, Đảng ta vẫn kiên trì mục tiêu và con đường đã lựa chọn, tiếp tục lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tiến hành mạnh mẽ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phấn đấu để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
    Thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua, đã khẳng định vai trò cầm quyền của Đảng ta; sự đúng đắn của đường lối cách mạng do Đảng vạch ra; sự trưởng thành về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Là Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng ta là nhân tố quyết định thành bại của cách mạng, là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của nước ta trước đây cũng như hiện nay.
     Trong bối cảnh, tình hình mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là tất yếu khách quan và là một nguyên tắc không thể thay đổi. Bởi lẽ, với tư cách là một Đảng cầm quyền, Đảng ta phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về vận mệnh phát triển của dân tộc, sự phát triển và sự phồn vinh của đất nước, về độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Cho nên năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là những điều kiện đủ để Đảng thực hiện sự cầm quyền của mình, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, và nó đã được nhân dân Việt Nam thừa nhận, suy tôn, Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất của mình; nhân dân yêu mến, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đàng và gọi tên Đảng với sự trìu mến, gần gữi, thân thương là Đảng ta.
     Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được củng cố, tăng cường và phát triển. Thực tế cách mạng ở nước ta đã chứng minh, hoàn thành nhiệm vụ lật đổ chế độ áp bức, bóc lột, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội đã là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp; song nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa cộng sản còn khó khăn, phức tạp gấp nhiều lần. Các giai đoạn đều cần đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
    Là Đảng cầm quyền, Đảng ta có hệ thống chính trị vững chắc từ trung ương đến cơ sở; trong đó, Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa là công cụ mạnh mẽ và sắc bén. Thông qua Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, Đảng ta tập hợp nhân dân thành khối đoàn kết toàn dân, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
    Năng lực lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh giành chính quyền, trong kháng chiến chống quân xâm lược, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta đã được khẳng định, không ai có thể bác bỏ được. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng vẫn tiếp tục được khẳng định và tăng cường.
    Sở dĩ Đảng ta thực hiện tốt vai trò của một Đảng cầm quyền là nhờ Đảng ta có đường lối, chủ trương đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; cán bộ, đảng viên của Đảng không ngại gian khổ, hy sinh vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Khác với các đảng phái khác, Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của quốc gia, giai cấp, dân tộc và nhân dân.
     Trước đây cũng như hiện nay, nếu không nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng thì nguy cơ sai lầm về đường lối có thể xảy ra; cán bộ, đảng viên quan liêu, xa nhân dân hơn; nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Thực tiễn cách mạng nước ta đã khẳng định rằng, để lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi, trước tiên Đảng Cộng sản Việt Nam phải đề ra đường lối đúng đắn; đường lối ấy phải được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và nguyện vọng chính đáng của nhân dân…Có như vậy, đường lối ấy mới đi vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực thực hiện và đường lối ấy sẽ trở thành hiện thực. Nếu xem nhẹ hoặc xa rời những điều nêu trên thì đường lối của Đảng đưa ra sẽ không sát thực, không đúng đắn, gây nên hậu quả khó lường. Chính vì vậy, Đảng cầm quyền không được phép sai lầm về đường lối, dù chỉ một lần.
   Trong bối cảnh tình hình hiện nay, nếu không chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng thì dễ mắc các bệnh chủ quan, duy ý chí, quan liêu, xa rời thực tế, thiếu dân chủ, xa dân… Đây là điều cực kỳ nguy hiểm và là một nguy cơ rất lớn đối với Đảng ta. Là một Đảng cầm quyền, phần lớn đảng viên của Đảng là những cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các ngành, các lĩnh vực từ trung ương đến cơ sở. Trong quá trình xây dựng, hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nếu không chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng thì một bộ phận cán bộ có chức có quyền dễ mắc “bệnh” quan lưu, lộng quyền, lạm quyền, độc đoán, xa dân, thậm chí coi thường dân, xa thực tế; đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Bởi lẽ, quan liêu, cửa quyền, xa thực tế, xa quần chúng là nguy cơ của một Đảng cầm quyền, là nguồn gốc của các thói hư, tật xấu và những hư hỏng. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh, hiện nay: “Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội”.
     Trước tác động của các nguy cơ: tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (khoá VII) đã chỉ rõ, đòi hỏi Đảng ta phải tuyệt đối trung thành, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì mục tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa, có trình độ trí tuệ và sự nhạy bén chính trị cao để lãnh đạo nhân dân ta vượt qua những nguy cơ, thách thức. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
      Hiện nay, trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển đang là xu thế lớn; song vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường: chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc, xung đột vũ trang, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, lãnh hải và các tài nguyên thiên  nhiên… tiếp tục xảy ra ở nhiều nơi với mức độ ngày càng tăng và tính chất ngày càng phức tạp.
Đối với nước ta, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ; tăng cường chống phá sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Đáng chú ý là ở một số địa phương, ngoài sự ổn định và phát triển nhanh chóng, bền vững về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh; đó đây, đơn vị này đơn vị khác còn xảy ra một số hiện tượng tiêu cực như vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước; chất lượng hoàn thành nhiệm vụ chưa cao, v.v..
 Trước sự biến đổi phức tạp của tình hình thế giới và yêu cầu nhiệm vụ mới hiện nay ở nước ta và lực lượng vũ trang, vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng nói chung, của Đảng bộ Quân đội nói riêng là tất yếu khách quan, không có sự lựa chọn nào khác. Mỗi cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Quân đội hãy nỗ lực phấn đấu vươn lên, ra sức xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, giữ vững bản lĩnh chính trị, tận dụng tốt thời cơ, quyết tâm vượt qua mọi nguy cơ, thách thức; lãnh đạo cơ quan, đơn vị khắc phục triệt để những hạn chế, khuyết điểm; phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị năm 2013, chuẩn bị tốt mọi điều kiện để vững tin bước vào năm 2014; sát cánh kề vai cùng đảng bộ, chính quyền và nhân dân các địa phương xây dựng đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; làm cho cuộc sống của nhân dân 6 tỉnh trên địa bàn Quân khu bình yên, ấm no, hạnh phúc; góp phần thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

HỌC TẬP BÁC HỒ VỀ TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH ĐỂ “SỬA MÌNH, HIỂU NGƯỜI”, GIỮ VỮNG NỀN NẾP, KỶ CƯƠNG, CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG



Bác Hồ đặc biệt coi trọng tự phê bình và phê bình. Tư tưởng của Bác về tự phê bình và phê bình là một trong những nội dụng cơ bản, có đóng góp quan trọng trong bảo vệ và phát triển lý luận Mác - Lênin; là nét đặc sắc trong tư tưởng của Người về xây dựng Đảng mácxít - lêninnít, là vũ khí lý luận sắc bén để đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại và các tiêu cực xã hội.
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” viết năm 1927, lần đầu tiên, Bác Hồ nói về tư cách người cách mạng với vấn đề tự phê bình và phê bình, hàm chứa những nội dung giáo dục và định hướng cách mạng sâu sắc. Bác luôn là người mẫu mực về tự phê bình và phê bình, coi tự phê bình và phê bình là động lực nội sinh thúc đẩy sự phát triển của mỗi người, mỗi tổ chức. Bác yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên, không kể chức vụ, cấp bậc; không phân biệt người tuổi cao hay còn trẻ tuổi, đều phải tự nhận thức, tự đánh giá, hiểu đúng mạnh yếu của bản thân mình, từ đó mà “cả quyết sửa lỗi của mình…có lòng bày vẽ cho người…hay xem xét người”1.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác quan niệm: “Phê bình là nêu yêu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình là nêu yêu điểm và vạch khuyết điểm của mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau. Mục đích là cho mọi người học lẫn nhau và giúp nhau sửa chữa khuyết điểm”1. Với cách diễn đạt giản dị, ngắn gọn và súc tích, Bác đã đưa ra khái niệm: tự phê bình và phê bình một cách rõ ràng, chính xác cả về mục đích, tính chất và nội dung. Theo Bác, tự phê bình phải đi đôi với phê bình. Hai mặt này phải kết hợp chặt chẽ, thống nhất với nhau, không thể tách rời nhau; không nên thiên vị, khuyếch đại một mặt nào. Trong mối quan hệ biện chứng này, tự phê bình được coi là tiền đề, là cơ sở cho phê bình. Người nói: “trước ta nói phê bình và tự phê bình, bây giờ phải nói tự phê bình và phê bình. Nói như thế là chú trọng phê bình mình trước, phê bình người sau”2.
Bác căn dặn: “Nói cái xấu phải nói cả cái tốt. Nếu chỉ chuyên nói cái xấu là lệch”3. Do vậy, xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng, nhất là đánh giá con người phải đặc biệt thận trọng. Mục đích của tự phê bình và phê bình là để tổ chức đảng trong sạch vững mạnh hơn, mỗi người tốt hơn. Vì vậy, “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”; sao cho sau khi được phê bình, tình đồng chí đồng đội tốt hơn, đoàn kết chặt chẽ hơn. Cho nên tự phê bình và phê bình đúng mực, chỉ ra được mặt ưu điểm và cả mặt khuyết điểm, các mặt ấy “có lý có tình”, phù hợp với thực tiễn cuộc sống và tâm lý con người; làm cho người ta “tâm phục khẩu phục”, thấy ưu điểm là đúng, vui vẻ hơn, phán chấn hơn, làm việc tốt hơn; đồng thời, thấy khuyết điểm cũng là đúng nên cũng vui vẻ, thoải mái nghe, tiếp thu, sửa chữa khuyết điểm để tiến bộ. Không nên “yêu thì nói tốt ghét thì nói xấu”, “bằng mặt nhưng không bằng lòng”; không nên tô hồng, bôi đen hiện thực khách quan, nói sai, phản ánh sai lệch sự thật. Bác dạy rằng, tự phê bình và phê bình là nhằm phát huy mặt tốt, khắc phục mặt xấu, giúp cho suy nghĩ, nhận thức, hành động đúng hơn, phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp cách mạng. Không nên dùng tự phê bình và phê bình để phê phán, chỉ trích, miệt thị nhau; làm cho người ta “mất mặt”, làm nhục tinh thần, thể xác con người theo nghĩa “vùi dập nhau”, “triệt hạ nhau”; bất luận vì lý do gì thì đều không nên “giận cá chém thớt”. Theo Bác, khi tự phê bình và phê bình “phải vạch cả ưu điểm và khuyết điểm…phê bình việc làm chứ không phải phê bình người” ”4. Trong mọi lúc, cái tâm của người phê bình phải sáng, cái đức phải cao; tự phê bình và phê bình sẽ kém hiệu quả nếu thiếu cái tâm, cái đức hoặc cái tâm, cái đức không trong, không sáng; lờ mờ.
Trong hoạt động thực tiễn, dưới bất cứ hình thức nào, công việc nào cũng đều có mâu thuẫn. Phương pháp giải quyết mâu thuẫn đạt hiệu quả cao nhất, theo Bác, là tự phê bình và phê bình; bởi vì, đã là người cộng sản, dứt khoát không được che đậy, giấu giếm khuyết điểm mà cần công khai phê bình khuyết điểm ấy. Bác viết: “luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình thì khuyết điểm hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi”1. Bác cho rằng, “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”2.
 Rõ ràng, đối với Đảng, đối với mỗi cán bộ, đảng viên, tự phê bình và phê bình là “liều thuốc quý”, có tác dụng chữa và cắt được bệnh, đồng thời, bồi bổ, làm người ta phấn chấn, tăng thêm sức khỏe” để phục vụ cách mạng, phụng sự nhân dân. Vì lẽ đó, tự phê bình và phê bình cần cho tất cả mọi người ví như họ cần không khí để thở, nước để uống, để rửa mặt, làm vệ sinh hàng ngày. Bản chất tự phê bình và phê bình là giải quyết mâu thuẫn nội bộ Đảng, củng cố mối quan hệ đoàn kết, thống nhất trong nhân dân, làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, đủ sức chèo lái con thuyền cách mạng, đưa nó đi đến bến bờ thành công. Tự phê bình và phê bình đã được ghi thành chế độ, quy định chặt chẽ trong Điều lệ Đảng, đảm bảo tính pháp lý để mọi tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên, bất kể là ai, đều phải chấp hành tự phê bình và phê bình nghiêm túc.
Rõ ràng, quan niệm của Bác về tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại, phát triển, là nguyên tắc và là chế độ sinh hoạt Đảng hoàn toàn không có gì mâu thuẫn mà thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Theo Bác, tự phê bình và phê bình còn là một trong những tiêu chí quan trọng để phân biệt Đảng Cộng sản với các đảng cơ hội, xét lại, cải lương. Xa rời tự phê bình và phê bình là xa rời bản chất Đảng, là nguy cơ gây ra tình trạng trì trệ, bảo thủ, là chỗ dựa vững chắc của sự tồn tại những khuyết điểm, sai lầm, yếu kém, của sự chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ Đảng, tạo kẻ hở để những kẻ xu nịnh, thoái hoá, biến chất tồn tại; bọn cơ hội, xét lại chui vào Đảng, thậm chí, thao túng, lũng đoạn, làm cho Đảng biến chất, thoái hoá, mất sức chiến đấu. Vì vậy, tự phê bình và phê bình vừa là hành động cách mạng vừa là một nghệ thuật vừa mang tính khoa học cao. Việc phê bình, xem xét, đánh giá, chỉ rõ đúng sai nhất thiết phải bảo đảm tính trung thực, khách quan và công khai; phải phân tích kỹ lưỡng điều kiện, hoàn cảnh, nguyên nhân khách quan, chủ quan tạo nên ưu điểm, dẫn đến khuyết điểm; tức là “nói có sách, mách có chứng”; có như vậy, ý kiến đống góp, phê bình mới chính xác, có sức thuyết phục cao.
Vì thế, Bác luôn coi trọng và đề cao tính dân chủ, công khai trong sinh hoạt Đảng, tự phê bình và phê bình. Bác cho rằng, “Phê bình cho đúng, chẳng những không làm giảm thể diện và uy tín của cán bộ, của Đảng. Trái lại, còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn, do đó mà uy tín và thể diện càng tăng thêm”1; còn nếu như sợ mất thể diện, mất uy tín, mất địa vị khi thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình là một chứng bệnh cần khắc phục. Vì vậy, Bác luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên “phải nâng cao giác ngộ tư tưởng, ngăn ngừa tự đại, tự cao, mạnh dạn công khai tự phê bình, vui vẻ tiếp thu lời phê bình của người khác”2.
Vì vậy, Bác thường dạy rằng, cán bộ, đảng viên, nhất là người chủ trì đơn vị, chủ trì hội nghị phải “khéo” sử dụng “vũ khí” tự phê bình và phê bình. Theo Bác, “khéo” sử dụng “vũ khí” tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng có nghĩa là biết dùng nghệ thuật để quan hệ, ứng xử sao cho thấu lý, đạt tình, công việc chung, riêng đều tốt, đạt hiệu quả. Thiết nghĩ, học tập Bác Hồ về tự phê bình và phê bình để “sửa mình, hiểu người” là việc rất cần thiết đối với mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay; có như vậy mới giữ vững kỷ cương, nền nếp, chế độ quy định, kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước; nhờ đó, mỗi cán bộ, đảng viên và đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao./.


1 HCM, Đường Kách mệnh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.260
1, 4 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996, tr.267, 229-306.
2 ,3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr.206, 322.
1, 2  Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996, tr.265, 261.
1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996, tr.284.
2 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996, tr.575.

KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM - TRÁCH NHIỆM CỦA CHÚNG TA



Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận cấu thành lãnh thổ và là chủ quyền thiêng liêng của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9 tháng 2 năm 2007 “Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, Đảng ta khẳng định mục tiêu và quyết tâm phấn đấu để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển; bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo; góp phần tích cực đưa công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đi đến thành công. Vì vậy, biển, đảo nước ta có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường sống của đất nước và mỗi công dân.
Là nước Đông Nam Á lục địa, Việt Nam có bờ biển dài 3260 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km2, với nhiều lợi ích ở biển, đảo. Biển nước ta có độ sâu trung bình; vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan là các vùng biển nông; chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa nên quanh năm nắng ấm, nhiều ánh sáng; độ muối trung bình khoảng 30-33%0. Nguồn lợi thỷ, hải sản của biển, đảo nước ta là rất lớn;  sinh vật biển phong phú, trữ lượng hải sản khoảng 3,9-4,0 triệu tấn, cho phép khai thác hàng năm khoảng 1,9 - 2,1 triệu tấn. Biển nước ta có hơn 2000 loài cá, trong đó có khoảng 120 loài có giá trị kinh tế; 1647 loài giáp xác, hơn 100 loài tôm. Ngoài ra, biển nước ta còn có hơn 2500 loài nhuyễn thể, hơn 600 loài rong biển và nhiều loại đặc sản như hải sâm, bào ngư, sò, điệp, v.v., có giá trị xuất khẩu cao.
Dọc bờ biển nước ta có nhiều bãi triều, đầm phá, các cánh rừng ngập mặn rất thuận lợi cho nuôi trồng hải sản nước mặn và nước lợ như nuôi cá lồng, tôm, cua, rau câu, v.v.. Ven bờ có nhiều đảo, vụng và vịnh, tạo điều kiện thuận lợi để hình thành các bãi cho cá, đồi mồi, chim biển, rắn biển và thú biển sinh sản, phát triển. Hiện nay ở nước ta có 4 ngư trường trọng điểm, có vai trò lớn trong bảo vệ và khai thác các nguồn lợi từ biển, đó là ngư trường Cà Mau - Kiên Giang, ngư trường Ninh thuận - Bình Thuận - Bà Rịa - Vũng Tàu, ngư trường Hải Phòng - Quảng Ninh và ngư trường quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa.
Trên vùng biển nước ta có khoảng 4000 hòn đảo lớn nhỏ; trong đó có gần 3000 hòn đảo ven bờ và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều tiềm năng về tài nguyên dầu khí, thủy, hải sản và quốc phòng, an ninh. Với chiến lược biển và những đổi mới trong chính sách của Đảng, Nhà nước, đã và đang tạo mọi điều kiện để khai thác tài nguyên biển, thủy, hải sản gắn với bảo vệ nguồn lợi và giữ vững chủ quyền vùng biển, hải đảo, thềm lục địa. Những năm gần đây, ngành thuỷ sản nước ta đã có bước phát triển đột phá. Tất cả các địa phương giáp biển đều đẩy mạnh đánh bắt, nuôi trồng thủy, hải sản, làm muối, làm du lịch biển…thu hút khá tốt nguồn nhân lực và giải quyết công ăn việc làm cho hơn 13 triệu lao động, góp phần to lớn vào việc ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và quốc phòng, an ninh. Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự đổi mới phương thức nuôi trồng, đánh bắt nguồn thủy, hải sản tự nhiên và nhân tạo; mỗi năm ngành thuỷ sản nước ta đạt tổng sản lượng khai thác khoảng gần 4 triệu tấn, lớn hơn sản lượng thịt cộng lại từ chăn nuôi gia súc, gia cầm. Hiện nay, các mặt hàng thuỷ, hải sản của nước ta đã xâm nhập sâu rộng vào thị trường châu Âu, Nhật Bản, Hoa Kỳ…
Biển Việt Nam nối thông với nhiều hướng, đi đến nhiều quốc gia nên rất thuận lợi để ngành giao thông vận tải biển phát triển, thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ… giữa nước ta và các nước trong khu vực và thế giới. Đường bờ biển của nước ta dài, có nhiều vũng, vịnh rộng, kín gió, và nhiều đảo ven bờ, đặc biệt là các cảng, cụm cảng lớn như Hải phòng, Cái Lân, Đà Nẵng-Liên Chiểu-Chân Mây, Dung Quất, Nha Trang, Sài Gòn-Vũng Tàu-Thị Vải, v.v., nằm trên đường hàng hải quốc tế nên có điều kiện rất thuận lợi để nước ta xây dựng các cảng biển, cảng sông, thúc đẩy sự phát triển giao thông đường biển; quan trọng nhất là hướng bắc- nam: từ Hải Phòng đến Thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại. (tuyến đường này dài 1500 km). Trong điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển nền kinh tế tri thức, các thế mạnh của biển, đảo nước ta ngày càng được phát huy. Hiện nay, đánh bắt thủy, hải sản và du lịch biển-đảo đã và đang góp phần quan trọng vào thay đổi cơ cấu kinh tế nước nhà. Hơn thế, vùng biển, đảo nước ta có điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên rất thuận lợi cho phát triển nhiều loại hình du lịch. Trong đó có quần thể du lịch Hạ Long đã được xếp hạng vào danh mục Di sản thiên nhiên thế giới. Ngoài ra, nước ta còn có nhiều bãi biển nổi tiếng như Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An), Mỹ Khê (Đà Nẵng), Nha Trang (Khánh Hoà)…là những điểm đến lý tưởng về du lịch.
Vùng thềm lục địa nước ta có nhiều bể trầm tích chứa dầu khí với tổng trữ lượng khoảng 10 tỷ tấn dầu quy đổi. Trên cơ sở hợp tác với một số nước về lĩnh vực này, chúng ta đã và đang đẩy mạnh thăm dò, khai thác dầu khí (từ năm 1986 đén nay) với quy mô ngày càng lớn, và kết quả bước đầu đã có tác động khá lớn đến sự phát triển nền kinh tế nước nhà. Việc phát triển công nghiệp lọc, hoá dầu và các ngành dịch vụ khai thác dầu khí đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ sự thay đổi cơ cấu kinh tế và ngành công nghiệp; tạo ra một sô nhà máy, khu công nghiệp lớn, tiêu biểu là Nhà máy lọc dầu Dung Quất. Việc sản xuất muối cũng rất thuận lợi. Các vùng sản xuất muối nổi tiếng, cho năng xuất, chất lượng cao là Cà Ná, Sa Huỳnh…
Gắn chặt với việc khai thác các nguồn tài nguyên dầu khí, du lịch, giao thông và các nguồn thủy, hải sản của biển, đảo… để làm giàu và đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển vào năm 2020; các cấp, các ngành và các địa phương giáp biển, đặc biệt là lực lượng vũ trang nhân dân đang đẩy mạnh hoạt động bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển; coi đó là nghĩa vụ thiêng liêng đối với Tổ quốc; thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ kinh yêu: “Ngày trước ta chỉ có đem và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp. ta phải biết giữ gìn lấy nó”./.

SỨC MẠNH CHÍNH TRỊ - TINH THẦN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM - Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY



Trong lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám là một trong những mốc son chói lọi nhất, trang sử vàng vẻ vang nhất của dân tộc Việt Nam. Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, lần đầu tiên, một dân tộc thuộc địa nửa phong kiến là Việt Nam: đất không rộng, người không đông, nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu đã “đồng tâm, hiệp sức, một lòng”, quyết đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược; đã đập tan ách áp bức, thống trị của phát xít Nhật sau 5 năm chiếm đóng; đã đánh đuổi thực dân Pháp dày xéo đất nước ta suốt 87 năm dòng, kết thúc sự ngụ trị của chế độ phong kiến lỗi thời; mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỉ nguyên độc lập tự do, nhân dân lao động trở thành chủ nhân đất nước, tự quyết định cuộc sống và vận mệnh của mình. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mở ra thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh với những chiến công oanh liệt cả trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, cả trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng ta từ hoạt động không hợp pháp trở thành một Đảng công khai lãnh đạo chính quyền cách mạng trong cả nước; nhân dân ta từ thân phận là người dân nô lệ, mất nước, cuộc sống cơ cực lầm than, trở thành người làm chủ đất nước, tự quyết định vận mệnh của dân tộc, gây tầm ảnh hưởng của mình đối với cộng đồng quốc tế. Đây là cuộc đổi đời, một cột mốc đánh dấu sự hồi sinh của một dân tộc; từ đây, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được ghi tên trên bản đồ thế giới; khẳng định vị thế, chỗ đứng của Việt Nam trong lịch sử và trong thế giới đương đại.
Đánh giá ý nghĩa thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “chẳng những giai cấp lao dộng và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và các dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng, lần này là lần đầu tiên trong lịch sử  cách mạng  của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo Cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”[i].
Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và đường lối chính trị - quân sự của Đảng ta; đã định hướng, mở đường; làm cơ sở cho sự phát triển toàn diện đất nước; đồng thời đặt nền móng vững chắc cho sự hình thành và phát triển nền khoa học quân sự, khoa học xã hội nhân văn quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại. Những nhân tố đó đã kết tinh và kiến tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần Việt Nam, giúp Đảng và nhân dân ta vượt qua muôn ngàn chông gai thử thách, chiến thắng đói nghèo, lạc hậu; chiến thắng kẻ thù hung bạo, dựng nên tượng đài nhân cách, phong cách con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.
  Sức mạnh chính trị - tinh thần trong Cách mạng Tháng Tám trước hết thể hiện ở vai trò lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Đây là điều kiện tiên quyết để Cách mạng Việt Nam đi đúng định hướng, Cách mạng Tháng Tám đi đến thành công. Khẳng định điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Cách mạng Việt Nam muốn giành thắng lợi trước hết phải có Đảng cách mệnh”[ii], “Đảng có vững cách mệnh mới thành công”2. Thấu hiểu sâu sắc điều ấy, nên từ năm 1925, Người đã sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, ra tờ báo Thanh niên, viết tác phẩm Đường Kách mệnh (1927),… tất cả những việc làm đó đều nhằm một mục đích: giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thanh niên Việt Nam yêu nước, làm hạt giống cách mạng để xây dựng phong trào cách mạng và khi điều kiện phát triển chín muồi, chính Người đã triệu tập hội nghị hợp nhất Đảng, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3.2.1930).
Đảng ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị do phong trào Cần Vương và các sĩ phu yêu nước phát động từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nhờ có Đảng lãnh đạo, Cách mạng Việt Nam có đường lối chính trị đúng đắn, có tư tưởng và hành động thống nhất, tổ chức Đảng có chất lượng cao, trong sạch vững mạnh; sâu sát và bám rễ sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng ở nước ta từ năm 1930 - 1945 chỉ ra rằng: nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam được chuẩn bị từ trước về mọi mặt: từ việc đấu tranh thành lập Đảng, đề ra Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt; thông qua cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh (1930 - 1931), đấu tranh phục hồi tổ chức Đảng (1932 - 1935); cao trào vận động dân chủ chống phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa bình (1936 - 1939) đến việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng, thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, Mặt trận Việt Minh, thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân; phát động đấu tranh chống Nhật, cứu nước, v.v..
Tất cả những việc là đó đã được Đảng ta cân nhắc cẩn trọng, chuẩn bị chu đáo cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Sự phát triển và trưởng thành nhanh chóng của lực lượng vũ trang, trở thành điểm tựa, chỗ dựa vững chắc cho đấu tranh cách mạng, là động lực kích thích phong trào cách mạng quần chúng phát triển nhanh, mạnh mẽ, liên tục. Vì thế, sự gắn kết chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, tạo thành những làn sóng cách mạng vô cùng mạnh mẽ tràn lên, lướt tới, nhấn chìm bọn phát xít Nhật, quấn phăng thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Cho nên, bất luận trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đều đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, công tác đảng, công tác chính trị, đảm bảo cho Đảng luôn có đường lối chính trị đúng đắn, thật sự trở thành bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam.
                   Sức mạnh chính trị - tinh thần trong Cách mạng Tháng Tám thể hiện ở việc Đảng ta phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cho ý Đảng, lòng dân hòa quện thống nhất, quân với dân một ý chí; mọi người dân Việt Nam không phân biệt giàu nghèo, sang hèn; già trẻ, gái trai tất cả đều tự nguyện đồng tâm, hợp sức đứng về phía cách mạng, trong đội ngũ của những người cách mạng, trở thành lực lượng chính trị hùng hậu, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Sức mạnh chính trị - tinh thần trong Cách mạng Tháng Tám là sức mạnh của lòng người, của tâm thế sẵn sàng, tự nguyện, tự giác chiến đấu hi sinh để Tổ quốc được sống, để dân tộc Việt Nam được trường tồn, phát triển.
Chính vì thế, sức mạnh chính trị - tinh thần của Đảng ta, nhân dân ta đã đè bẹp ý chí quân xâm lược, nghiền nát những vũ khí tối tân, hiện đại là những máy bay, xe tăng, tàu chiến của bọn thực dân, đế quốc, làm cho chính phủ của đội quân xâm lược khốn đốn, sự uy nghi của cường quốc về kinh tế, quân sự bị lung lay, tinh thần của một dân tộc “thượng đẳng” bị rệu dạo, lung lay, suy sụp. Với tinh thần gan góc, quả cảm và sáng tạo, đội quân chính trị của Đảng là nhân dân ta, quân đội ta đã được tôi luyện qua bão lửa của cách mạng là các cao trào 1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945.
Cùng với sự phát triển là lớn mạnh của lực lượng chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đặc biệt coi trọng công tác tổ chức rèn luyện cán bộ, chiến sĩ; tổ chức sắp xếp lực lượng vũ trang với cơ cấu hợp lí, kỉ luật tự giác nghiêm minh, có mối quan hệ nội bộ và quân dân tốt, đánh giặc giỏi, công tác hăng say, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. Sự ra đời của Đội du kích Bắc Sơn, Cứu Quốc Quân, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã chứng minh điều đó. Cái mới, cái sâu sắc phản ánh sự am hiểu tường tận về sức mạnh của nhân tố chính trị - tinh thần của con người Việt Nam trong tương quan so sánh lực lượng với địch là sự giác ngộ và nhận thức đúng đắn mục tiêu, lý tưởng, lẽ sống, ý thức trách nhiệm, lòng yêu nước, căm thù giặc của mỗi người dân Việt Nam đối với vận mệnh của Tổ quốc, của Đảng, của nhân dân ta. Họ hiểu rõ vì ai mà chiến đấu, vì ai sẵng sàng hy sinh cả tính mạng, tuổi trẻ. Vì thế, ngay sau khi ra đời, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã lấy phương châm hoạt động của mình: “chính trị trọng hơn quân sự”, “người trước súng sau” để phát triển lực lượng. Nắm vững phương châm ấy, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã tập trung sức xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng để phát triển lực lượng vũ trang. Nhờ đó, sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đã tạo nên sức mạnh vô địch của lực lượng cách mạng; dựa vào nền tảng sức mạnh của lực lượng cách mạng hiện có, Đảng đã nhân thêm sức mạnh mới, nhờ đó từng bước chuyển hóa lực lượng, ta từ yếu chuyển thành mạnh; không những đủ sức để đấu tranh giành chính quyền cách mạng mà còn là nguồn sức mạnh vô địch để bảo vệ chính quyền cách mạng.
Một trong những điểm mấu chốt về phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám là Đảng ta đã nhạy bén, sáng tạo trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa; lấy căn cứ địa để xây dựng và củng cố cơ sở chính trị ở thành thị, nông thôn; do đó, xuất phát từ cơ sở chính trị để xây dựng cơ sở vũ trang, tiến lên xây dựng khu du kích. Những việc làm đó đã được nhân dân hết lòng ủng hộ, giúp đỡ cả về điều kiện vật chất, cả về nhân tố chính trị - tinh thần. Sự lớn mạnh không ngừng của các căn cứ địa cách mạng trong phạm vi cả nước là cơ sở đặc biệt quan trọng để thành lập, củng cố và phát triển chính quyền cách mạng; qua đó, Đảng tuyên truyền, giáo dục các chủ trương, chính sách, tình hình địch và ta đến mọi người dân.
Vì vậy, ý Đảng, lòng dân, quân với dân một ý chí ngày càng bền chặt, phát triển. Rõ ràng là, khi chưa có tình thế cách mạng trực tiếp thì đấu tranh chính trị được Đảng xác định là mặt trận chủ yếu; theo đó, phát huy sức mạnh của nhân tố chính trị - tinh thần đã được đề cao. Khi tình thế mới xuất hiện, Đảng đã nhạy bén, sáng tạo chuyển hình thức đấu tranh từ thấp lên cao, phát động chiến tranh du kích, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần, tiến lên Tổng khởi nghĩa. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, việc chớp thời cơ và tận dụng tốt các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” nên Đảng đã phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, toàn dân tham gia đánh giặc, cả nước đồng lòng, gắng sức; vì thế, Đảng đã tạo nên sức mạnh vô địch để chiến thắng quân xâm lược quân số đông, nhiều tiền, lắm của, vũ khí tối tân hiện đại.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quí báu, cần nghiên cứu kĩ để vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay; đó là kinh nghiệm kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua thực tiễn lãnh đạo ba cao trào cách mạng, Đảng ta đã rút ra kết luận: trong điều kiện, hoàn cảnh của nước ta, nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất. Vì vậy, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và từng bước thực hiện với những chương trình, nhiệm vụ cụ thể. Khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra, Đảng ta xác định, mũi nhọn của cách mạng cần chĩa vào Phát xít Nhật - Pháp. Đó là giải pháp tình thế hướng vào giải quyết mâu thuẫn chủ yếu cấp bách đặt ra. Đồng thời, Đảng đã phát huy tốt vai trò nền tảng của khối liên minh công - nông - binh…, huy động và tổ chức toàn dân tham gia đánh giặc.
Thực tiễn lãnh đạo 3 cao trào cách mạng đã chứng minh điều đó. Đây là một trong những yếu tố cần đặc biệt nghiên cứu, kế thừa và vận dụng vào xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, động viên nhân dân tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Một trong những kinh nghiệm quí báu mà thắng lợi của cách mạng tháng Tám chỉ ra là Đảng ta đã khôn khéo lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù; đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát xít, giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận địa chủ phong kiến, đồng thời lợi dụng mâu thuẫn ngay trong hàng ngũ ngụy quyền, ngụy quân tay sai. Nhờ đó đã cô lập cao độ bọn đế quốc, phát xít và bọn tay sai thân cận chúng; tranh thủ, lôi kéo những phần tử lừng chừng về phía ta. Đây là một kinh nghiệm quí báu rút ra từ Cách mạng Tháng Tám cần nghiên cứu, vận dụng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng cấu thành, tạo nên sức sức mạnh chính trị - tinh thần to lớn, góp phần làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là xây dựng Đảng mácxít - lêninnít ngang tầm nhiệm vụ,  đủ sức lãnh đạo cách mạng. Nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam có được đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn. Đảng ta đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta; đã phát huy triệt để sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh vô địch để đánh thắng kẻ thù; đã sử dụng tối ưu bạo lực cách mạng, kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, v.v..
Có thể khẳng định rằng, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của sức mạnh chính trị - tinh thần Việt Nam của Đảng và nhân dân ta; thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ; thắng lợi của lòng kiên nhẫn, ý chí quyết đánh, quyết thắng; thắng lợi của khối đại đoàn kết dân tộc, của liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức Việt Nam...Giá trị, ý nghĩa và sức sống của nó đặc biệt sâu sắc, đã trở thành “thương hiệu” giá trị Việt Nam, có sức sống mãnh liệt giữa lòng nhân loại; đã đi vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, góp phần làm nên đại thắng mùa Xuân 1975 lịch sử; và ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nó là hành trang cần thiết để Đảng và nhân dân ta, cán bộ, chiến sĩ quân đội ta phát huy nhân tố chính trị - tinh thần, nâng nó lên tầm cao mới, biến nó thành động lực, sức mạnh mới để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.


[i] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H. 2000, tr.159.
[ii],2 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H. 2000, tr.188.

Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

Tìm hiểu thực chất và ý nghĩa của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh

(ĐCSVN)Trong các bài viết, bài nói của mình, Hồ Chí Minh hầu như không dùng ngôn ngữ triết học và không tự thừa nhận mình là nhà khoa học, nhưng trong tư tưởng của Người lại luôn nhất quán một thế giới quan, một nhân sinh quan, một hệ thống tư duy triết học. 
Là học trò của C.Mác, Ph. Ăng ghen, V.I.Lênin nên thế giới quan, tư duy triết học của Người là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Người đã bảo vệ và phát triển tư duy triết học trên nền tảng triết học Mác - Lênin. Khác với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lê nin, Hồ Chí Minh không để lại một tác phẩm triết học như: Hệ tư tưởng Đức, Luận cương Phoiơbắc, Biện chứng của tự nhiên, Bút ký triết học... Bởi vì, Hồ Chí Minh sống và hoạt động cách mạng trong thời đại đã có chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng, dẫn đường và nhiệm vụ của Người là cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bóc lột, bất công đem lại hoà bình, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Chính nhiệm vụ này đã cuốn hút Người với tất cả tinh thần và sức lực, làm cho Người sống gần gũi với nhân dân, đem tinh tuý, sâu sắc của triết học diễn đạt thành những điều giản dị, cụ thể, rõ ràng và thiết thực để nhân dân dễ hiểu, dễ làm. Rõ ràng, phải có một trình độ triết học sâu sắc, uyên bác, Hồ Chí Minh mới có thể chuyển hoá thành triết học của cuộc sống. Nhờ đó, người trang bị cho cán bộ, đảng viên thế giới quan duy vật biện chứng, giúp họ nhìn nhận, xem xét, đánh giá đúng tình hình, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách sát thực tế, có hiệu quả; đồng thời không rơi vào dao động, không mắc phải sai lầm ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí cũng như giáo điều, xét lại; mặc dù khi viết, khi nói Người ít dùng các thuật ngữ triết học. 
Nghiên cứu di sản lý luận và cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy ở Người toát lên những tư tưởng triết học sâu sắc. Hồ Chí Minh đã dựa chắc vào vấn đề cơ bản triết học để giải quyết mối quan hệ giữa việc nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa phát triển sản xuất với củng cố hệ thống chính trị, tăng trưởng kinh tế với phát triển giáo dục văn hoá và nhiều mối quan hệ khác như mối quan hệ giữa xây dựng đất nước với đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc; kết hợp sức mạnh của dân tộc với thời đại, giữa kháng chiến với kiến quốc. Rõ ràng, khi giải thích hàng loạt các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Hồ Chí Minh đã nói tới triết học, bàn tới triết học và tư tưởng triết học Hồ Chí Minh thể hiện rõ những giá trị nhân văn đặc sắc, tràn đầy tinh thần biện chứng duy vật. Trong đó có sự hoà quyện đến nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, tinh hoa văn hoá, triết học phương Đông, phương Tây và lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Với tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người, chúng ta nhận thấy ở đó có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phép “biến dịch” của triết học phương Đông và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin. 
Thế giới quan Hồ Chí Minh là thế giới quan khoa học. Trong đó, thế giới quan triết học Mác - Lênin đóng vai trò quyết định bản chất khoa học, cách mạng. Thế giới quan của Người còn ảnh hưởng của tư tưởng triết học dân tộc, của tinh hoá văn hoá, triết học phương Đông, phương Tây. Về khuynh hướng tư duy, tư tưởng triết học Hồ Chí Minh đi sâu lý giải các vấn đề xã hội và nhân sinh. Bởi lẽ, xuất phát từ hoài bão lớn lao và mục đích chính trị cao cả là “cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc” nên Người đặc biệt chú trọng xây dựng lý luận về chính trị - xã hội, đạo đức cách mạng nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn hơn là hình thức học thuyết triết học, nhận thức và lôgíc học như các nhà triết học vẫn thường làm. 
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là sản phẩm của quá trình hoạt động tư duy lý luận và cuộc đời hoạt động cách mạng của Người có vai trò to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Chính tư tưởng, quan điểm triết học của Người cùng với triết học Mác -Lênin luôn là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho cách mạng Việt Nam. Chúng ta không thể hiểu rõ bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh nếu như không hiểu cái gì là cốt lõi quy định cách nhìn, cách nghĩ và phương pháp cách mạng cũng như cái gì là trung tâm dẫn dắt đồng bào ta vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh đứng vững trên lập trường duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đã đi vào thực tiễn xã hội Việt Nam, lấy cái cốt lõi là giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công, đem lại cuộc sống hoà bình, tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào làm mục đích hướng tới, đạt tới. Đây thực chất là những cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh đối với việc bảo vệ và phát triển triết học Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử mới, nhất là việc phát triển chủ nghĩa duy vật lịch sử. 
Những cống hiến của Hồ Chí Minh trong phát triển triết học Mác -Lênin là tư tưởng về giải phóng dân tộc, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực ra hai khái niệm này đều được Hồ Chí Minh dùng cùng một nội hàm như nhau. Đối với Hồ Chí Minh, thực tế không đối lập với thực tiễn, nó chỉ rộng hơn thực tiễn mà thôi. Khi bàn về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với tư cách là một nguyên tắc cơ bản của triết học Mác -Lênin, Hồ Chí Minh dùng khái niệm thực tiễn, liên hệ lý luận với thực tiễn thì Người thường dùng khái niệm thực tế thay cho thực tiễn. Ngày nay, trong đời sống hàng ngày, khái niệm thực tiễn và thực tế được nhân dân ta hiểu và sử dụng cùng nghĩa (xem từ điển Tiếng Việt 1991). 
Trong thế giới quan triết học của Hồ Chí Minh, vấn đề con người chiếm vị trí hết sức quan trọng. Phương pháp tiếp cận và giải quyết vấn đề con người ở Hồ Chí Minh không phải là chung chung, trừu tượng, phi lịch sử như trong triết học nhân bản mà là con người hiện thực, con người lao động “đồng bào tôi”. Trọn đời mình, Người phấn đấu, hy sinh là nhằm mục đích đem lại độc lập, tự do, cơm no, áo ấm cho đồng bào. Chủ nghĩa nhân văn hiện thực cao cả của Hồ Chí Minh thể hiện ở lòng thương yêu con người, tôn trọng, tin tưởng ở nhân dân, coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân. 
Có thể khái quát tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là sự kết hợp sáng tạo đạt đến sự nhuần nhuyễn giữa tư duy triết học Mác -Lênin mà cốt lõi là tư duy biện chứng duy vật trong sự hoà quyện với tư duy duy triết học và văn hoá phương Đông, phương Tây, tư duy, trí tuệ, văn hoá dân tộc Việt Nam và phong cách Hồ Chí Minh. Nhờ đó, Người đã tìm ra bản chất, quy luật và hình thành nên hệ thống luận điểm về chủ nghĩa thực dân, về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ...có những quyết định đúng đắn, sáng tạo, đảm bảo cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Từ quan niệm trên, có thể thấy tư tưởng triết học Hồ Chí Minh có một số đặc trưng cơ bản như sau: 
Trước hết, tư duy triết học Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính khoa học và tính cách mạng, giữa lập trường, quan điểm và phương pháp nhận thức, hành động. Sự kết hợp này vừa là đặc trưng tư duy triết học Hồ Chí Minh vừa là nguyên tắc của Hồ Chí Minh nhận thứ và hành động. Thể hiện sự nhất quán trong tư tưởng triết học của Người. 
Tư duy triết học Hồ Chí Minh là tư duy độc lập, sáng tạo, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, suy nghĩ và hành động, giữa lời nói và việc làm thể hiện sự hoàn chỉnh chu kỳ vận động: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn hoạt động cách mạng Việt Nam. 
Tư duy triết học Hồ Chí Minh được thể hiện bằng ngôn ngữ trong sáng, giản dị, phổ thông, dễ hiểu, dễ xâm nhập vào quần chúng. Có thể coi đây là đặc trưng đặc sắc, độc đáo của tư duy triết học Hồ Chí Minh. 
Việc nắm vững thực chất phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lê nin và truyền thống triết học phương Đông, nắm vững ngôn ngữ của quần chúng nhân dân và quan hệ mật thiết với họ đã giúp Người diễn đạt tư tưởng triết học duy vật biện chứng vốn là tư duy khoa học, có hàm lượng trí tuệ cao, có sự trừu tượng hoá và khái quát cao, sâu sắc trở nên phổ thông, dễ hiểu mà vẫn giữ được bản chất khoa học, cách mạng của nó. 
Nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, xuyên suốt tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng quy luật khách quan: nắm vững quan điểm thực tiễn và thực hiện đúng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; giải quyết mọi việc phải toàn diện, nhấn mạnh trọng điểm và lấy hiệu quả làm mục đích; xem xét sự việc trong sự phát triển, thực hiện “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; giải quyết mọi việc đều vì con người, do con người, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. 
Phương pháp luận Hồ Chí Minh là phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Về thực chất, đó là phép biện chứng Hồ Chí Minh, là phương châm xem xét và hành động khoa học được Hồ Chí Minh đúc kết từ sự tiếp thu, kế thừa, vận dụng sáng tạo và bổ sung, phát triển phép biện chứng duy vật mác-xít, kết hợp với kế thừa truyền thống tư duy dân tộc, tư duy triết học phương Đông và thực tiễn giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam. 
Khái quát lại, tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm, quan niệm duy vật biện chứng về con đường cách mạng Việt Nam, thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nhằm xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. 
Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác - Lênin, bao quát nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú mà nền tảng của nó là tư tưởng triết học. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh không chỉ là sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo triết học Mác -Lênin mà còn có sự phát triển Triết học Mác -Lênin, nhất là một số vấn đề về chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhờ đó Hồ Chí Minh đã góp phần làm phong phú, giàu có thêm kho tàng lý luận Mác -Lênin nói chung, triết học Mác -lênin nói riêng. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học cách mạng, là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà hạt nhân là thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng luôn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta. 

Đoàn kết, thống nhất - cội nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng

(ĐCSVN) - Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã rút ra quy luật sinh tồn: Đoàn kết là sức mạnh. Khẳng định giá trị to lớn của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công.
Thật vậy! Nhờ phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, biết “đồng cam, cộng khổ”, “chung sức, đồng lòng”; triệu người như một, ông cha ta đã làm nên những chiến công hiển hách, đánh bại mọi kẻ thù hung bạo, dù chúng có quân hùng, tướng mạnh, lắm tiền, nhiều của, vũ khí tối tân, hiện đại hơn ta nhiều lần. Có thể khẳng định rằng, đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc ta, là tài sản tinh thần vô giá mà ông cha ta để lại cho con cháu muôn đời. Vì vậy, chúng ta cần nâng niu, gìn giữ và phát huy, coi đó là hành trang cần thiết để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính nó là cội nguồn sức mạnh để Đảng và nhân dân ta chiến thắng mọi loại kẻ thù: giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc rét, giặc dốt…
Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết quốc tế được Đảng ta quan tâm, chăm lo xây dựng, bồi đắp, phát triển trên nền tảng vững chắc là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh khoa học và cách mạng. Với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn luôn đặt lợi ích dân tộc, lợi ích Tổ quốc lên trên hết. Ngoài lợi ích của nhân dân và của giai cấp công nhân, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Qua các thời kỳ cách mạng, đặc biệt là những lúc hiểm nghèo, cách mạng gặp khó khăn, thử thách, những người cộng sản đã nêu cao tấm gương sáng ngời về sự thống nhất ý chí, hành động, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng như "giữ gìn con ngươi của mắt mình". Nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Chính sự thống nhất ý chí và hành động, tính tổ chức và kỷ luật trong Đảng đã hoà quyện, đúc rèn nên “ý Đảng lòng dân” thành một khối vững chắc, thống nhất, không sức mạnh nào có thể chuyển lay, phá nổi; làm nên sự đoàn kết, thống nhất trong nhân dân và toàn dân tộc, xây đắp nên tình đoàn kết quốc tế trong sáng, son sắt, thuỷ chung.
Trong bối cảnh, tình hình phức tạp hiện nay, đấu tranh để xây dựng, củng cố và bảo vệ sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng cũng là truyền thống tốt đẹp, là quy luật vận động, phát triển và trưởng thành của Đảng và nhân dân ta. Sự kiên trung, vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, trọn đời vì dân, vì nước, gắn bó máu thịt với nhân dân, sự trong sạch về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là hạt nhân của khối đại đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân. Và khi ý Đảng lòng dân đã là một khối thống nhất vững chắc thì chẳng có khó khăn, trở ngại nào có thể cản bước, chặn đường. Các thế lực thù địch và bè lũ tay sai của chúng dù có , dùng mọi thủ đoạn chống phá cũng không thể ngăn đường, cản trở sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của nhân dân ta.
Có thể khẳng định rằng, thành tựu của cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua là thắng lợi của sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Đó là nhân tố chính trị - tinh thần mang ý nghĩa quyết định để Đảng, Nhà nước ta xây dựng, củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế, đưa sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đi đến thành công.
Đoàn kết, thống nhất không chỉ là truyền thống quý báu, tài sản vô giá mà còn là sức mạnh vô địch của Đảng và nhân dân ta. Chúng ta tin tưởng rằng, những bài học thành công của việc xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng hơn 80 năm qua là kinh nghiệm quý báu và là niềm tin yêu để chúng ta vượt mọi khó khăn, thử thách, vững tin tiến lên phía trước; ra sức củng cố và phát huy sức mạnh của sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trong nhân dân thời kỳ mới. Đó chính là hành trang gắn chặt hơn nữa ý Đảng, lòng dân để tạo nên sức mạnh nội lực, giúp chúng ta hoàn thành xuất sắc mọi chỉ tiêu, nhiệm vụ của năm 2011 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011 - 2020), xây dựng nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” đúng như điều Bác Hồ kính yêu mong muốn./.

Tiếp tục thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng trong thời kỳ đổi mới

(ĐCSVN) - Đảng và Nhà nước ta luôn xác định vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng nước ta. Vì vậy, công tác dân tộc luôn được xác định là một bộ phận quan trọng của của đường lối cách mạng Việt Nam. Các chủ trương, chính sách dân tộc luôn gắn với các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và sự quan tâm của cả hệ thống chính trị.
Hiện nay ở nước ta, đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14% dân số cả nước, cư trú trên 52 tỉnh, thành phố, chủ yếu là sinh sống ở các vùng miền đặc biệt khó khăn như: Miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Đây là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, quốc phòng, an ninh …
Trong những năm qua, nhờ quán triệt và thực hiện tốt chủ trương, chính sách dân tộc và miền núi của Đảng, Nhà nước, sự phấn đấu vươn lên không ngừng của các cấp, các ngành ở Trung ương, địa phương và sự nỗ lực vượt bậc của đồng bào các dân tộc, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc có nhiều chuyển biến tích cực: kinh tế - xã hội phát triển, cơ sở hạ tầng và những vấn đề xã hội bức xúc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa từng bước được giải quyết. Đó là điều kiện vật chất cần thiết để thu hẹp dần khoảng cách giữa các vùng miền và các dân tộc. Nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh hộ gia đình, trang trại, hợp tác xã sản xuất giỏi, có hiệu quả đã hình thành và phát triển. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá gắn chặt với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được khẳng định và ngày càng mở rộng. Bộ mặt nông thôn mới ở hầu hết các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa hình thành rõ nét, trở thành các điểm sáng văn hoá - xã hội đang xuất hiện ngày càng nhiều, đem lại luồng sinh khí và sức sống mới trên khắp các vùng miền của Tổ quốc.
Phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa không chỉ có ý nghĩa đối với việc nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho đồng bào các dân tộc mà còn góp phần giữ vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng ở địa bàn chiến lược; Củng cố lòng tin của đồng bào đối với đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước; Đồng thời, nâng cao ý thức phòng gian, cảnh giác cách mạng trước các âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” và phá hoại của địch.
Tuy nhiên, so với mặt bằng của đời sống xã hội, nhất là các thành phố và các tỉnh đồng bằng thì các tỉnh miền núi, nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống còn gặp nhiều khó khăn như: Tỉ lệ hộ nghèo còn cao; Trình độ dân trí, mức hưởng thụ văn hoá, giáo dục còn thấp; Việc chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào còn hạn chế; Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định… Vì vậy, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng các “kẽ hở”, thiếu sót của ta về vấn đề dân tộc để đẩy mạnh “diễn biến hoà bình”, nhất là sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo” và “dân tộc” để chống phá cách mạng Việt Nam.
Gần đây, nhất là sau khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thành công, các thế lực thù địch càng ráo riết đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ đối với Việt Nam. Một trong những thủ đoạn thâm độc của chúng là lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của ta về vấn đề dân tộc để tuyên truyền kích động, gây hoang mang, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm giảm lòng tin của đồng bào các dân tộc với Đảng, Nhà nước và quân đội ta. Chúng thu nhận những phần tử bất mãn với chế độ, hình thành lực lượng đối lập, đối trọng với chính quyền nhằm tạo ra một cơ sở xã hội không ổn định, suy yếu từ bên trong; từ đó gây ra mâu thuẫn nội bộ, dẫn tới ta “tự diễn biến” rất nguy hiểm.
Lợi dụng những khó khăn của đồng bào các dân tộc, chúng vu khống, nói xấu chế độ, xuyên tạc đường lối, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước; Sử dụng miếng mồi “đầu tư vật chất”, “hỗ trợ trọn gói” nhằm thu hút lực lượng để thành lập “khu tự trị” của người dân tộc thiểu số; Đồng thời, kích động, hỗ trợ, chỉ đạo lực lượng phản động trong người dân tộc thiểu số hoạt động chống đối chính quyền, tạo ra các “điểm nóng dân tộc”, lấy cớ can thiệp để lái Việt Nam đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện tốt đường lối, chính sách dân tộc và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, chúng ta cần: Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng, nhất là đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác dân tộc đối với việc cụ thể hoá các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước thành các chương trình hành động, các biện pháp cụ thể, quyết tâm đưa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng vào đời sống; Đầu tư thoả đáng để thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các chỉ tiêu đã xác định để không ngừng cải thiện đời sống vật chất, tinh thần đối với đồng bào dân tộc thiểu số; Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, giữ gìn và làm giàu tiếng nói của mỗi dân tộc, phát huy bản sắc văn hoá, truyền thống yêu nước; Tạo mọi điều kiện để các dân tộc đóng góp xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội các vùng miền; Xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc ở vùng dân tộc thiểu số; Có các phương án khả thi để kịp thời phát hiện, đấu tranh, cải tạo các đối tượng ngoan cố, lợi dụng vấn đề dân tộc để thực hiện “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng Việt Nam./.

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến với vấn đề nhận thức bản chất của kẻ thù, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng của nhân dân ta


(ĐCSVN) - Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”… 
Tại sao thực dân Pháp lại “quyết tâm cướp nước ta lần nữa”? Họ cố tình quay trở lại xâm lược Việt Nam nhằm mục đích gì? Phải chăng đó là hành động tự phát, nhất thời? Không! Điều đó hoàn toàn không phải là tự phát, càng không phải là ý muốn chủ quan của một cá nhân nào đó trong giới cầm quyền “chóp bu” của Chính phủ Pháp mà là “ý thức hệ” của giai cấp tư sản Pháp, chủ nghĩa thực dân Pháp được thể hiện bằng một kế hoạch đã được vạch sẵn, có các “bước đi và lộ trình rõ ràng”, được khởi đầu từ giữa thế kỷ XIX, khi quân Pháp lần đầu tiên đặt gót giày xâm lược lên đất nước ta ở cảng Đà Nẵng và đến thời tướng Đờ Gôn, khi nước Pháp còn bị phát xít Đức chiếm đóng, thì kế hoạch này đã được Đờ Gôn điều chỉnh, bổ sung và triển khai thực hiện. Ông ta tuyên bố rằng: Phải đứng về phía Đồng Minh chống phát xít để cứu nước Pháp. Kế hoạch cứu và phục hưng nước Pháp trở thành “mệnh lệnh” không chỉ thôi thúc Đờ Gôn và những người đứng đầu Chính phủ Pháp xích lại gần các nước Đồng minh là Anh, Mỹ với những cái bắt tay “thân mật”, để rồi tạm gác hoặc “quên đi” những hận thù, những hiềm khích vốn có trong lịch sử để lo việc lớn mà còn bừng sáng tia hy vọng ở Đờ Gôn: Bành trướng sang châu Á, nhanh chóng áp đặt nền thống trị ở Đông Dương, mở rộng khai thác thuộc địa để bù đắp cho sự thiếu hụt tài sản do chi phí cho chiến tranh quá lớn và sự khan hiếm nguồn tài nguyên thiên nhiên của nước Pháp. Vì vậy, từ năm 1943, khi cuộc chiến chống quân phát xít bắt đầu mở rộng thì trong tay Đờ Gôn đã có sẵn một bản kế hoạch chi tiết “trở lại Đông Dương”, tiếp tục thực hiện mưu đồ “khai hoá” Việt Nam, truyền bá “văn minh người Pháp” cho xứ này. 

Rõ ràng, việc thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa đã nằm trong kế hoạch của Đờ Gôn và Chính phủ Pháp, nó bộc lộ rõ bản chất và bộ mặt thật của thực dân xâm lược hiếu chiến: muốn đặt ách thống trị và áp bức lên đầu, lên cổ nhân dân ta, biến nước ta thành thuộc địa - nơi cung cấp các nguyên vật liệu cần thiết để làm giàu cho chúng. Ở đây, có một số vấn đề đặt ra cần làm sáng tỏ là, để nhanh chóng thực hiện mưu đồ: “hàn gắn vết thương chiến tranh, nhanh chóng phục hưng nước Pháp”, tại sao kẻ thù lại không lựa chọn các nước khác để xâm lược và biến các nước đó làm thuộc địa của mình một cách dễ dàng hơn, mà lại lựa chọn và tiến hành xâm lược Việt Nam, dù chúng biết rằng xâm lược và thôn tính dân tộc này sẽ rất khó khăn. Việt Nam là một dân tộc vốn có truyền thống hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, rất yêu chuộng hoà bình và thiết tha với độc lập, tự do. Vậy thì, điều gì khiến thực dân Pháp phiêu lưu, mạo hiểm ? Phải chăng họ quá tin vào sức mạnh của đội quân xâm lược với đầy đủ vũ khí tối tân hiện đại nhất nhì thời đó sẽ giúp họ sớm đè bẹp sự phản kháng của Việt Nam? Phải chăng, khi nghiên cứu lịch sử các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của những người tiền nhiệm họ đã tìm thấy bài học kinh nghiệm để có thể không lặp lại những thất bại thảm hại mà những người đi trước đã mắc phải? 
Luận giải các vấn đề nêu trên sẽ có nhiều đáp án khác nhau, tuỳ theo cách nhìn nhận của mỗi người, mỗi thế hệ. Song, dù luận giải thế nào thì thực tế sau đây không ai có thể bác bỏ: Đem quân đi xâm lược Việt Nam và Đông Dương từ năm 1858 và lại quay lại xâm lược Việt Nam và Đông Dương lần thứ 2 sau năm 1945, hẳn là giới cầm quyền “chóp bu” trong Chính phủ Pháp đã phải cân nhắc và tính toán rất kỹ lưỡng. Với nền khoa học, kỹ thuật phát triển và những “bộ óc tầm cỡ quốc tế”, “có tri thức bách khoa thư”, họ thừa sức hiểu rõ cái được, cái mất, cái lợi, các hại khi tiến hành xâm lược Việt Nam. Trong sự tính toán đó, họ luôn tự đắc ý là cuối cùng sẽ nắm chắc phần thắng trong tay, còn việc để cho Việt Nam giành được chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 chỉ là sự cố “sai sót nhỏ” do điều kiện lịch sử “khách quan” tạo ra. Vì vậy, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945 là để “sửa lại” những “sai sót nhỏ” không đáng có bởi sự “sơ suất” mà họ mắc phải. Thực chất điều này là gì? Đằng sau những lời hoa mỹ ấy cần phải hiểu như thế nào cho đúng? Ai cũng biết rằng, đem quân đi xâm lược Việt Nam không phải là “một cuộc dạo chơi” của thực dân Pháp mà thực chất là chúng triển khai thực hiện những ý đồ đã định sẵn vì lợi ích của nước Pháp nhằm củng cố và không ngừng nâng cao uy tín, vị thế của một cường quốc về kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học và quân sự trên trường quốc tế. Đúng vậy! Sau hơn 20 năm tiến hành những cuộc hành binh man rợ, tàn sát đẫm máu những cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta, thực dân Pháp mới áp đặt được ách thống trị trên đất nước Việt Nam. 
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), Pháp tuy là một nước thắng trận, nhưng bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế rơi vào tình trạng đình dốn, kiệt quệ. Thực dân Pháp đã tăng cường đầu tư vào Việt Nam, một mặt là nhằm khai thác được nhiều hơn kho tài nguyên thiên nhiên phong phú và nguồn nhân công rẻ mạt; mặc khác, chúng muốn nắm thật chặt thị trường Việt Nam để điều tiết thị trường Lào và Campuchia. Có thể khẳng định rằng, lợi ích kinh tế là một trong những mục đích chủ yếu, xuyên suốt, và là động lực cơ bản nhất thôi thúc thực dân Pháp đưa quân xâm lược Việt Nam và Đông Dương, với ý đồ biến mảnh đất này thành thuộc địa để nuôi dưỡng, làm giàu cho chúng. Vì thế, chúng bất chấp đạo lý, bất chấp dư luận và luật pháp quốc tế, ngang ngược thực hiện kế hoạch xâm lược Việt Nam. 
Nếu không phải là vậy thì tại sao thực dân Pháp lại đeo đuổi mục đích và bằng mọi cách để quay lại xâm lược Việt Nam, thôn tính Việt Nam sau năm 1945? Chúng ta biết rằng, trước 1858 giữa Việt Nam và Pháp chưa có mối quan hệ ngoại giao, hai dân tộc hoàn toàn không có thù hận, vướng mắc nào. Việc thực dân Pháp tự cho mình là “văn minh”, đi “khai hoá” cho Việt Nam chỉ là cái trò lừa bịp để đem quân xâm lược Việt Nam, nhằm mục đích mở rộng thuộc địa, đặt ách thống trị ở Việt Nam và Đông Dương, khai thác, vơ vét càng nhiều càng tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân công rẻ mạt phục vụ cho sự phát triển của giai cấp tư sản Pháp. Điều này đã quá rõ ràng. Việc quân Pháp quay trở lại Việt Nam sau năm 1945 thực chất là sự tiếp tục theo đuổi mục đích xâm lược của họ trước đây. Bản chất, âm mưu xâm lược Việt Nam của kẻ thù không hề thay đổi, có chăng chỉ là sự thay đổi các thủ đoạn và biện pháp xâm lược mà thôi. 
Vào những năm 1945-1946, Đức, ý, Nhật lần lượt bị đánh bại, các nước Đồng Minh đã cứu loài người ra khỏi thảm hoạ phát xít; các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt ra đời. Anh, Pháp trong phe Đồng Minh, tuy thắng trận nhưng kiệt quệ về kinh tế, quân sự, vị thế cường quốc của họ bị suy giảm nghiêm trọng. Lúc đó, Mỹ đã vươn lên cầm đầu phe tư bản chủ nghĩa. Chính phủ Mỹ, từ chỗ ngăn cản Pháp trở lại Đông Dương trong thời kỳ Tổng thống Rudơven với ý đồ tranh giành ảnh hưởng của Pháp ở vùng này, dần dần đi đến chỗ ủng hộ Pháp trở lại thuộc địa cũ. Trở lại xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã cân nhắc, tính toán rất kỹ lưỡng: Thứ nhất, trong khối Đồng Minh, Mỹ và Anh đều ủng hộ Pháp; thứ hai, Việt Nam đã từng là thuộc địa của Pháp; thứ ba, cả Mỹ, Anh và Pháp đều muốn xoá bỏ nhà nước dân chủ đầu tiên ở khu vực này, đồng thời bảo vệ, củng cố hệ thống thuộc địa đang có nguy cơ tan rã; thứ tư, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam mới ra đời còn rất non trẻ, nền kinh tế suy kiệt, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Vì vậy, vào thời điểm đó, tiến hành xâm lược Việt Nam, Pháp hy vọng sẽ nhanh chóng đánh đổ chính quyền cách mạng, giành thuộc địa. Pháp xem đây không chỉ là việc quay trở lại “lãnh địa” cũ của mình mà còn là để ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô và phong trào chủ nghĩa xã hội ở khu vực này. Tóm lại, bản chất, âm mưu và chính sách xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp trước sau là nhất quán, vì lợi ích kinh tế và chính trị của họ. 
Vậy là, thực dân Pháp cũng như đế quốc Mỹ và bất cứ lực lượng nào, hễ đem quân xâm lược nước ta, đi ngược lại nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta, gây đau thương, tang tóc cho nhân dân ta thì đều là kẻ thù của nhân dân ta và nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới, đều là hiểm hoạ của sự tiến bộ xã hội và nền hoà bình thế giới. Chừng nào còn tồn tại chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc thì chừng ấy nhân dân ta và cả loài người vẫn còn nguy cơ chiến tranh, tội ác và đau khổ. Vì vậy, “chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. Chỉ khi nào tiêu diệt được chủ nghĩa thực dân, đế quốc thì chúng ta mới xoá bỏ được nguy cơ chiến tranh, tệ nạn người áp bức, bóc lột người, lúc đó loài người mới thật sự có tự do, hạnh phúc. Thực tiễn lịch sử dân tộc Việt Nam và lịch sử thế giới hiện đại đã chứng minh điều này. Cho nên ai đó còn đang tin vào lòng tốt, sự nhân từ, “bác ái”, “văn hoá, văn minh” của quân “ăn cướp”, bè lũ thực dân, đế quốc và tay sai của chúng thì hãy đọc lại “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và hàng loạt các tác phẩm khác của Người viết trong giai đoạn này. Đọc và suy ngẫm từ những trang sách đó, kiểm nghiệm qua thực tiễn đánh giặc giữ nước của dân tộc mỗi người trong chúng ta sẽ nhận ra sự thật, để biết phải trái, đúng sai, hiểu rõ hơn bạn, thù, tăng thêm ý thức tự tôn dân tộc, thêm tự hào vì mình là công dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; từ đó nâng cao ý thức cảnh giác, nhìn rõ và lường trước mọi việc có thể xảy ra, sẵn sàng làm tròn bổn phận công dân của mình, quyết “hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước”, để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa - nơi tổ tiên mình đã sống, nơi mình đã sinh ra, lớn lên và trở thành con người . 

Tránh bị "lây nhiễm, mắc bệnh" thoái hóa về đạo đức, lối sống

(ĐCSVN) -  Suy thoái tư tưởng, đặc biệt là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một số cán bộ, đảng viên đã và đang gây dư luận không tốt trong xã hội, làm suy giảm niềm tin đối với Đảng trong nhân dân.
Sự suy thoái tư tưởng chính trị là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến sai lầm, suy thoái về đạo đức, lối sống và các chứng bệnh khác. Cho nên, muốn không bị suy thoái tư tưởng chính trị dẫn đến các loại suy thoái khác thì một vấn đề có tính nguyên tắc (bất di bất dịch) là phải quan tâm chăm lo công tác giáo dục tư tưởng chính trị; ra sức xây dựng môi trường văn hóa chính trị lành mạnh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước chiếm vị trí thống trị trong đời sống văn hóa - tinh thần xã hội; đồng thời, phải làm tốt hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát, giáo dục cán bộ, đảng viên; kiên quyết, kịp thời đưa những cán bộ, đảng viên không đủ tiêu chuẩn do thoái hóa, biến chất ra khỏi tổ chức đảng; làm cho Đảng ngày càng trong sạch, lành mạnh.
Sự suy thoái về tư tưởng chính trị ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và những biểu hiện của nó là xa rời hoặc coi thường việc nghiên cứu, học tập, trau dồi lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; băn khoăn, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; nói và làm sai nghị quyết của Đảng; không có thiện cảm với công cuộc đổi mới và những thành tựu đã đạt được ...
Sự suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên không những làm cho họ và tổ chức đảng nơi họ công tác, sinh hoạt mất sức chiến đấu mà tệ hại hơn là làm cho một số người xung quanh bị lây nhiễm, mắc bệnh thoái hóa về đạo đức, lối sống. Và chính nó, sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở bộ phận cán bộ, đảng viên này tác động trở lại, làm cho các quan điểm, tư tưởng chính trị sai trái có "đất sống" và gây ra các chứng bệnh khác.
Suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một cơ thể mang mầm bệnh ghép gồm ba chứng bệnh: Suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức, suy thoái về lối sống. Sự phát bệnh và hiện tượng lộ rõ nhất có khi lại bắt đầu bằng việc suy thoái đạo đức hoặc lối sống thông qua các hành vi “lệch chuẩn” của nó.
Nói cách khác, sự suy thoái về tư tưởng chính trị thường được che giấu, ngụy trang kín đáo, rất khó nhìn thấy, nhất là đối với một số người từng trải, có nhiều kinh nghiệm thực tế; song sự “hư đốn” lại thấy dễ dàng hơn bởi sự buông thả ở một số người này như tham nhũng, nhận hối lộ, chạy chức, chạy quyền; vun vén lợi ích cá nhân... Rõ ràng là, suy thoái tư tưởng chính trị là dấu hiệu đầu tiên dẫn đến và quy định nguồn gốc, bản chất, tính chất, hình thức biểu hiện của suy thoái về đạo đức, lối sống. Nếu sự suy thoái về tư tưởng chính trị được loại bỏ hoặc mất đi thì sớm hay muộn, hai hình thức suy thoái về phẩm chất đạo đức, nhân cách và sự suy thoái về lối sống, theo đó cũng sẽ mất theo. Ngược lại, là những hình thức nảy sinh do suy thoái tư tưởng chính trị gây nên nhưng sự suy thoái về đạo đức, lối sống có tính độc lập tương đối. Nó ngấm ngầm hay công khai biểu hiện theo những con đường, cách thức riêng mặc dù chủ thể của nó vẫn đứng trên diễn đàn đưa ra những lời "ngọc ngà" như: chống tham nhũng, chống chạy chức, chạy quyền, chống suy thoái về đạo đức, lối sống; chỉ đến khi luật pháp vạch mặt, sai trái ấy mới bị phơi bày.
Hãy lấy thực tiễn đời sống của nhân dân, của cán bộ, chiến sĩ và mức sống của họ làm gốc để đánh giá tài năng, đức độ, sự cống hiến của mỗi người. Nhân dân bao giờ cũng sáng suốt. Họ chỉ thật sự tin tưởng, đặt niềm tin, hy vọng vào ai, tổ chức nào nếu tổ chức đó, người nào đó sống, chiến đấu, lao động hết lòng vì họ; thật sự chăm lo cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của họ. Điều đó hoàn toàn phù hợp với mục tiêu, tôn chỉ, lý tưởng phấn đấu của Đảng ta. Thực tế đã khẳng định rằng, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam, Bác Hồ kính yêu và những cán bộ, đảng viên chân chính của Đảng mới làm tốt điều đó và xứng đáng được nhân dân ngưỡng mộ, tin yêu, suy tôn và gọi cái tên trìu mến: Bác Hồ và Đảng ta! Đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một công việc cấp thiết phải làm nhằm gột rửa thói hư, tật xấu để uy danh của Đảng ta sống mãi trong lòng nhân dân; là cách tốt nhất để thực hiện thành công mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội./.

Những vấn đề có tính nguyên tắc cần khẳng định trong sửa đổi Hiến pháp 1992 về bảo vệ Tổ quốc

(ĐCSVN) - Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là một đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị nước ta nhằm phát huy quyền làm chủ, trí tuệ, tâm huyết, ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 1992 đã kế thừa những giá trị khoa học về nội dung trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992; thể chế hóa kịp thời Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
Đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc - một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã dành một chương (Chương 4) để hiến định. Với 5 điều, từ điều 69 đến điều 73; Dự thảo thể hiện cô đọng, chính xác, đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi nhất về bảo vệ Tổ quốc: Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Nội dung này đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân đồng tình, nhất trí trong góp ý kiến của mình. Tuy nhiên, đã và đang còn một số ý kiến băn khoăn về điểm này, điểm khác trong Chương 4, thậm chí có ý kiến còn kiến nghị “quân đội phải trung lập, đứng ngoài chính trị”. Thiết nghĩ, cho dù là ai và với động cơ chính trị gì, thì quan điểm đó chỉ là thiểu số và nó hoàn toàn đi ngược lại xu thế chung, thực sự lạc lõng trước dòng đời, trước công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang ra sức phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Lý luận và thực tiễn tổ chức hoạt động quân sự, xây dựng nhà nước và quân đội trong lịch sử nhân loại đã chứng minh và khẳng định rằng, không có quân đội nào đứng ngoài chính trị. Nhìn lại truyền thống lịch sử hào hùng với những chiến công hiển hách của Quân đội nhân dân Việt Nam, ai cũng thấy rõ mối quan hệ máu thịt giữa quân đội với Đảng và nhân dân; ai cũng phải thừa nhận rằng, sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của quân đội ta, của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, trong điều 70, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, có hai điểm mới bổ sung: Một là,“lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”, hai là, “bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân...”. Sự bổ sung này là rất cần thiết, bảo đảm tính nhất quán, chặt chẽ, chính xác; phản ánh đúng bản chất, nhiệm vụ, chức năng, vai trò của quân đội kiểu mới, quân đội cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo cũng như mối quan hệ máu thịt giữa quân đội với Đảng và nhân dân. Thực tiễn gần 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta qua các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã chứng minh điều đó.
Là công dân nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, sống trong lòng dân tộc, hiểu rõ cội nguồn lịch sử, hẳn ai cũng phải đau buồn, xót sa cho dân tộc khi dân tộc mình bị ngoại bang dày xéo, đô hộ, áp bức, bóc lột, nhân dân ta là nô lệ, phải sống kiếp ngựa trâu, bị tước mất quyền sống làm người. Có thể ai đó đã quên quá khứ dài lâu: dân tộc ta đã bị giặc phương Bắc thống trị hơn một ngàn năm nhưng không thể quên lịch sử hiện đại chỉ trên dưới một trăm năm gần đây, kể từ khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, sau đó là phát xít Nhật, đế quốc Mỹ ... và tội ác tột cùng của chúng.
Trong gần một trăm năm thực dân Pháp cai trị, ông cha ta chẳng hề tiếc máu xương, lớp lớp người kế tiếp nhau đứng lên chống lại quân xâm lược. Bao nhiêu phong trào vận động cứu nước, bao nhiêu cuộc khởi nghĩa đã nổ ra nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp dã man, dìm trong biển máu. Tổ quốc trước những năm 1930 thật đau thương, bế tắc, tình hình đen tối vì không có đường ra. Trong hoàn cảnh ấy, Đảng ta ra đời đã đem ánh sáng dọi đường đi cho dân tộc. Đảng đã sáng lập ra quân đội và lãnh đạo nhân dân ta làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công; khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ công hòa... Khởi nguồn này thật sự là tốt đẹp, đã đem lại sinh khí cho dân tộc, mở ra thời đại mới: độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc; nhân dân làm chủ cuộc sống của mình. Những gì nhân dân ta tạo dựng, xây đắp nên và có được cuộc sống hòa bình, tự do, độc lập và ngày càng ấm no, hạnh phúc như ngày hôm nay đâu phải tự nhiên mà có được nếu thiếu sự sự lãnh đạo của Đảng, sự chiến đấu dũng cảm, kiên cường của quân đội, sự hy sinh xương máu của hàng vạn anh hùng liệt sĩ; sự cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân... Vì vậy, đặt vấn đề: Vì sao lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND) phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) là sự khẳng định lại một cách dứt khoát, rõ ràng quan điểm, thái độ, niềm tin tưởng tuyệt đối của LLVTND đối với sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng CSVN đối với LLVTND ta. Nói cách khác, sự lãnh đạo của Đảng CSVN là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của LLVTND.
Tuyệt đối trung thành với Đảng CSVN là nét đẹp văn hóa của “Bộ đội Cụ Hồ”, là lịch sử truyền thống tốt đẹp của LLVTND và nhân dân ta. Tuyệt đối trung thành với Đảng CSVN là trước sau như một, không bao giờ thay lòng đổi dạ; là sự trọn vẹn tấm lòng son sắt, thủy chung với Đảng, tận trung với nước, tận hiếu với dân; tuyệt đối chấp hành nghị quyết, mệnh lệnh của Đảng; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân; đi bất cứ nơi đâu và làm bất cứ nhiệm vụ gì Đảng và nhân dân giao phó; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua; kẻ thù nào cũng đánh thắng. Cơ sở khoa học của sự trung thành tuyệt đối của LLVTND đối với Đảng CSVN thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, LLVTND do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức sáng lập, giáo dục, rèn luyện và trực tiếp lãnh đạo. Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của LLVTND ta chính là mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng CSVN: Tất cả vì hạnh phúc của nhân dân; vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; trong đó, có quyền lợi, lợi ích chính đáng cho mỗi quân nhân, gia đình, người thân và dòng tộc của họ do Đảng đem lại. Như vậy, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng và LLVTND ta bện chặt vào nhau, hoàn toàn thống nhất. Ngoài mục tiêu, lý tưởng cao cả, thiêng liêng: Phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Đảng ta và LLVTND ta không có mục đích nào khác.
Thứ hai, sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với LLVTND là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của LLVTND ta; nhờ đó, LLVTND ta đã cùng toàn dân đánh thắng hai đế quốc đầu sỏ, thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Bác “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, thực hiện thống nhất đất nước, đưa giang sơn gấm vóc về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghiã lịch sử. Nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, LLVTND ta từ một đội quân có 34 chiến sĩ đã phát triển, trưởng thành, hùng mạnh với đầy đủ các quân, binh chủng như ngày nay; đủ sức đập tan mọi kẻ thù nếu chúng liều lĩnh xâm lược nước ta. Nhờ có Đảng, nhân dân ta và các gia đình cán bộ, chiến sĩ trong LLVTND được sống trong hòa bình, độc lập, tự do và ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Rõ ràng là, sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với LLVTND là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của LLVTND ta. Đây là một nguyên tắc chiến lược, liên quan trực tiếp đến sự sống còn của chế độ XHCN và sự an nguy của quốc gia dân tộc Việt Nam. Nếu mắc sai lầm hoặc vi phạm nguyên tắc này, ngay lập tức, chúng ta phải trả giá đắt: Đất nước mất tự do, độc lập, thành quả cách mạng mà nhân dân ta, LLVTND ta bằng xương máu, công sức, mồ hôi, nước mắt của mình xây đắp nên sẽ bị xóa bỏ; nhân dân ta; trong đó có các gia đình cán bộ, chiến sĩ LLVTND sẽ rơi vào tình cảnh nô lệ, lầm than, mất nước. Chúng ta sẽ mắc tội vong ân bội nghĩa đối với hàng vạn anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc. Hãy đến các nghĩa trang liệt sĩ ở Trường Sơn và khắp đất nước sẽ thấu hiểu hơn điều thiêng liêng ấy.
Sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là thảm họa chính trị của thế kỷ XX; dẫn đến chế độ XHCN sụp đổ; hàng triệu gia đình quân nhân phải sống trong sự đau khổ, khốn cùng, LLVT Liên Xô mất phương hướng. Đó là bài học xương máu, vô cùng đắt giá từ sự quay lưng, thiếu sự trung thành của LLVT Liên Xô đối với Đảng Cộng sản của họ. Cho nên chỉ có tin tưởng đi theo Đảng CSVN, trung thành tuyệt đối với Đảng thì mới thật sự có ấm no, tự do, hạnh phúc. Điều này không chỉ là đạo lý, lẽ phải thông thường, sự suy tôn, tôn vinh của LLVTND ta đối với Đảng mà còn là lương tâm, trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ cao cả, thiêng liêng của mỗi quân nhân, cán bộ, chiến sĩ LLVTND ta đối với Đảng. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, chúng ta cần có Đảng như cần cơm ăn, nước uống để sống và cần không khí để thở, ánh sáng để đi đường...
Ai đó, quay lưng lại với Đảng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, cũng có nghĩa là từ bỏ mục tiêu, lý tưởng của Đảng, là đi ngược lại lợi ích chính đáng của nhân dân và LLVTND ta, là phản bội với người thân, ông cha, dòng tộc, tổ tiên của họ.
Cho nên, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân là bảo vệ chính cuộc sống, quyền lợi, lợi ích chính đáng của mình, của gia đình, dòng họ, của quê hương đất nước; là bảo vệ những giá trị tinh túy, tốt đẹp nhất của nhân dân và dân tộc kết tinh trong Đảng. Đương nhiên, trong bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, chúng ta không chỉ là làm cho cái tốt đẹp, tiến bộ, tích cực sinh sôi, nảy nở, đơm hoa, kết trái, dâng cho đời quả ngọt, hương thơm mà đồng thời phải chủ động, tích cực đấu tranh khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế không thể tránh khỏi có thể xuất hiện lúc này, lúc khác trong thực tiễn cuộc sống, cả những sai lầm của Đảng, để Đảng luôn luôn là “đạo đức, là văn minh” như Bác Hồ đã khẳng định.
 Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, những năm qua, Nhà nước ta đã thể chế hóa những quy định của Hiến pháp thành các luật như Luật Quốc phòng, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Biên giới quốc gia...và các văn bản dưới luật, v.v.. Các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, từng bước đã thể chế hóa các nội dung về bảo vệ Tổ quốc ghi trong Hiến pháp năm 1992; đã phát huy tốt vai trò, tác dụng trong đời sống thực tiễn, trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời, thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của Đảng về vấn đề này. Tính ưu việt của các văn bảp pháp luật về quốc phòng, quân sự thể hiện ở chỗ: Các văn bản ấy đãphản ánh đầy đủ các đặc trưng cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; đó là tính ý chí, tính quyền lực, tính quy phạm, tính xã hội và tính nhân đạo. Nói cách khác, các văn bản pháp luật này đãphản ánh đúng nhu cầu khách quan của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc - một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Nhờ đó, nó góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, nâng cao uy tín, vị thế của Đảng ta, nước ta trên trường quốc tế. Vai trò to lớn của các văn bản pháp luật nêu trên thể hiện ở những điểm sau:
Là sự thống nhất ý Đảng, lòng dân; quân với dân một ý chí; sự đồng tâm, đồng sức, đồng lòng trong xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh gắn với xây dựng, củng cố thế trận chiến tranh nhân dân; xây dựng thế trận lòng dân; xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; làm cho LLVTND ta đủ sức đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Là phương tiện để Nhà nước quản lý thống nhất, chặt chẽ công tác quân sự, quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
- Góp phần nâng cao và thống nhất về nhận thức, hành động đối với công tác quân sự, quốc phòng, an ninhtrong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; các cấp, các bộ, ngành, địa phương và LLVTND trong thực hiệm 2 nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; khẳng định rõ quan điểm, lập trường nhất quán, trước sau như một của Đảng ta: trong khi tập trung sức phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, Đảng ta không một phút nào lơi lỏng nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Tạo lập môi trường ổn định cho việc thiết lập, củng cố, phát triển các quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân, các cấp, các bộ, ngành, địa phương và LLVTND trong thực hiện dân chủ, khách quan, công khai, công bằng, minh bạch các bộ luật, pháp lệnh; bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ chính đáng của mọi công dân. Điều đó khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng ta - một Đảng cầm quyền và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tại Điều 69, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 viết: “Lực lượng vũ trang giữ vai trò nòng cốt; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới”. Như vậy, điểm mới trong sửa đổi Hiến pháp năm 1992 lần này là “góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới”. Vấn đề này không chỉ khẳng định rõ vai trò, ý thức trách nhiệm của LLVTND ta trong việc tham gia gìn giữ hòa bình, an ninh ở khu vực và quốc tế trong bối cảnh phức tạp hiện nay mà còn thể hiện rõ uy tín, vị thế, sự phát triển, trưởng thành và sức mạnh của LLVTND Việt Nam. Chúng ta đánh giá cao vai trò và coi hoạt động giữ gìn hòa bình là một chức năng quan trọng của Liên hợp quốc. Đồng thời, nhấn mạnh rằng, để hoàn thành tốt chức năng này, các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc cần phải tuân thủ các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia; bảo đảm tính vô tư; không thiên vị và chỉ được triển khai khi được các bên liên quan đồng ý, thống nhất cao.
Với tinh thần ấy, Việt Nam đang hoàn tất quá trình chuẩn bị để có thể tham gia một cách có hiệu quả các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. Các cơ quan hữu quan của Việt Nam đang tích cực nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các nước, chuẩn bị nhân sự có đủ trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và kiến thức luật pháp quốc tế để có thể tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc với tinh thần trách nhiệm và hiệu quả cao nhất. Chúng ta đang tích cực làm hết sức mình để có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp gìn giữ hòa bình, an ninh, giải trừ quân bị; nhằmngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh cũng như giải quyết hậu quả xung đột vũ trang và chiến tranh. Đồng thời, sẵn sàng hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới để giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống. Vì vậy, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ song phương và đa phương như trao đổi thông tin, kinh nghiệm, tạo lập cơ chế phối hợp để phòng ngừa, đối phó và xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống có liên quan. Các cơ quan của Việt Nam đang chuẩn bị các điều kiện để có thể tham gia diễn tập đa phương tìm kiếm cứu nạn trên biển Đông và các vấn đề nhân đạo khác, trước hết là đối với các nước láng giềng và trong khu vực.
Trong xây dựng quân đội hiện nay, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhấn mạnh vai trò nòng cốt của“Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại... ” và tương tự như vậy, đối với Công an nhân dân. Điều này khẳng định Quân đội nhân dân và Công an nhân dân ngay từ khi mới thành lập và trong suốt quá trình xây dựng, phát triển và trưởng thành đã luôn luôn mang bản chất cách mạng. Sự nhấn mạnh này là rất cần thiết, bảo đảm tính nhất quán, chặt chẽ, chính xác; phản ánh đúng bản chất, nhiệm vụ, chức năng, vai trò của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Thực tế chỉ ra rằng, Quân đội ta là quân đội kiểu mớiquân đội cách mạng, mang bản chất của giai cấp công nhân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; do Đảng, Bác Hồ kính yêu tổ chức sáng lập, giáo dục và rèn luyện; thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân đấu tranh thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bản chất cách mạng của quân đội ta được Bác Hồ khái quát như sau: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua; kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Nói cách khác, quân đội ta mang bản chất của giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Điều đó thể hiện rõ trong mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao sức mạnh tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội ta. Có thể khẳng định rằng, bản chất cách mạng của quân đội là nhân tố hàng đầu và là cơ sở để xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Vì vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội ta; làm cho bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân luôn được giữ vững và phát huy là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Bên cạnh Chương 4 về bảo vệ Tổ quốc, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 còn có Điều 11 và Điều 48 cũng có nội dung gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc: “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm”; “Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm cấm theo pháp luật”; “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân; việc thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự do luật định”.
Đúng như vậy! Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Đây là một vấn đề mang tính tất yếu khách quan và phổ biến. Nó vừa là niềm vinh dự, tự hào, vừa là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân. Hiến pháp của hầu hết các nước đều khẳng định như vậy. 

 Bản thân mỗi công dân, người thân, gia đình của họ lại sống trong một cộng đồng, dân tộc, tổ quốc. Nếu cộng đồng, dân tộc, tổ quốc bị xâm lăng thì lợi ích, quyền lợi cá nhân và gia đình, dòng tộc không thể bảo toàn và họ không thể sống bình yênhạnh phúc. Chính điều đó đã buộc họ phải gắn bó với cộng đồng, dân tộc, phải cầm súng và các loại vũ khí sẵn có để bảo vệ, giữ gìn những gì họ tạo ra, làm nên. Từ câu chuyên cụ thể ấy có thể suy rộng ra: nền độc lập, tự do, hòa bình và quyền được sống làm người mà chúng ta có được đã tốn bao nhiêu xương máu của hàng triệu người đã dũng cảm chiến đấu, hy sinh qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ mới dành lại được không thể để buông rơi, bị kẻ khác cướp đoạt do mắc sai lầm về đường lối. Vì vậy, công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự là nhằm bảo vệ mảnh đất nơi mình đã “chôn dau, cắt rốn” và lớn lên, là bảo vệ người thân yêu, gia đình, xóm làng, quê hương, tổ quốc; bảo vệ thành quả cách mạng. Đó là việc làm chính đáng; nhân đạo; vừa bảo vệ quyền lợi, lợi ích vừa thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng của mình. Công dân có thể trực tiếp tham gia LLVTND hoặc gián tiếp tham gia các hình thức khác để bảo vệ Tổ quốc theo quy định của luật pháp. Làm việc đó là ích nước, lợi nhà và cũng là niềm vinh dự, tự hào; đồng thời là danh dự của công dân nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; do đó, lực lượng vũ trang nhân dân trước hết phải tuyệt đối trung thành với Đảng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân. Đồng thời, làm nòng cốt, cùng toàn dân chủ động, tích cực bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa. Đó là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân./.