Thứ Ba, 2 tháng 6, 2015

Nâng cao năng lực trí tuệ của Đảng trong giai đoạn hiện nay

Bác Hồ và Đảng ta là hiện thân cao nhất của trí tuệ Việt Nam, là linh hồn của cách mạng Việt Nam. Người đã cùng Đảng ta xác định đúng đắn mục tiêu, đường lối, chiến lược, sách lược đấu tranh cách mạng; đã lãnh đạo toàn dân và toàn quân ta từng bước thực hiện mục tiêu dân chủ, người cày có ruộng; qua đó, làm nên cách mạng tháng Tám thành công. Bên cạnh việc xác định đúng mục tiêu, đường lối, phương thức thực hiện cuộc cách mạng - biểu hiện cao nhất của trí tuệ Việt Nam, Đảng ta còn xác định đúng đắn mối tương quan lực lượng, thế mạnh, yếu và xu thế vận động của thế và lực để đề ra đường lối của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính nên chúng ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải cuốn cờ về nước; chấm dứt gần một trăm năm thống trị nước ta.
Vận dụng sáng tạo quy luật của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và quy luật của chiến tranh cách mạng, Đảng ta đã đề ra chiến lược, sách lược đấu tranh chống đế quốc Mỹ một cách đúng đắn, linh hoạt; tạo được thời, thế và lực có lợi cho cách mạng; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc; đồng thời tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ tối đa của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới; nhờ đó, chúng ta đã giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Điều đó không chỉ thể hiện ý chí tự lực tự cường, độc lập tự chủ; sự kết hợp ý chí, trí tuệ của Đảng với ý chí, trí tuệ của nhân dân mà còn thể hiện rất rõ tinh thần dám đánh, dám thắng và năng lực biết đánh, biết thắng của quân và dân ta. Vì vậy, chúng ta đã thực hiện trọn vẹn lời căn dặn của Bác: đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào; giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Rõ ràng, với đường lối quân sự, chính trị đúng đắn, sáng tạo, Đảng ta đã khơi dậy và khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh vốn có, trong đó có nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược là thắng lợi của đường lối chính trị, quân sự của Đảng ta và đó cũng là thắng lợi của trí tuệ Việt Nam. Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một vấn đề mới chưa có trong tiền lệ lịch sử dân tộc. Để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã phát huy nguồn lực trí tuệ trong điều kiện đổi mới. Tuy nhiên, do bị chi phối bởi cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp và hậu quả nặng nề của chiến tranh do thực dân, đế quốc gây ra, nước ta đã rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn, việc khai thác tiềm năng trí tuệ gặp nhiều trắc trở, hạn chế.
Tuy vậy, trước yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo. Nhờ đó, chúng ta từng bước khắc phục được khó khăn, tiếp thu, kế thừa các thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, đưa nước ta vượt qua khó khăn, thách thức. Một trong những đường lối, chủ trương đúng đắn, sáng tạo là Đảng đã tập trung phát triển con người Việt Nam, nâng tầm cao trí tuệ, sự cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần cho họ. Nhờ đó, chúng ta từng bước nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, coi nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điểm nổi bật của phát huy trí tuệ là Đảng đã tập trung xây dựng đội ngũ tri thức, cùng với giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Như vậy, xây dựng đội ngũ tri thức, đẩy mạnh giáo dục và đào tạo, gắn với phát triển giáo dục và đào tạo với khoa học và công nghệ đã trở thành động lực mạnh mẽ đưa nước ta bước vào thời kì mới. Đây là cơ sở khoa học để Đảng và nhà nước ta xây dựng, phát triển các chiến lược kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, so với tiềm năng thế mạnh vốn có thì nguồn lực trí tuệ Việt Nam chưa được phát huy đầy đủ. Vào những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn về vai trò, động lực của việc phát huy năng lực trí tuệ của con người Việt Nam. Trên thực tế, việc triển khai đường lối, quan điểm của Đảng về nâng cao trình độ trí tuệ cho người dân Việt Nam còn nhiều hạn chế. Chính sách trọng dụng người tài còn mang tính nửa vời, tình trạng chảy máu chất xám đã diễn ra. Liên quan đến vấn đề này là hệ thống chính sách chậm đổi mới hoặc lạc hậu, nhất là chính sách việc làm, chính sách tiền lương và khen thưởng, chính sách trọng dụng và đãi ngộ người tài còn nhiều điểm bất cập. Tất cả điều đó đã tạo nên áp lực lớn, thậm chí cản trở quá trình phát triển của nước ta. Nói một cách khác, sau khi nước nhà thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã mắc phải căn bệnh chủ quan, duy ý chí. Do đó, chưa khai thác tốt mọi tiềm năng trí tuệ của con người Việt Nam. Trong nhiều thập kỉ qua, nước ta còn thiếu một triết lý giáo dục nhân sinh. Vì thế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đang chỉ là mục tiêu hướng đến chứ chưa thể trở thành động lực của sự phát triển. Vì vậy, sự cần thiết phải nhận rõ vai trò, vị trí của trí thức, trí tuệ Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Một trong những giải pháp mang ý nghĩa tạo ra sự phát triển đột phá trong việc phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam, góp phần trấn hưng dân tộc trong thời kì mới, trước hết cần phải thống nhất và nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về vị trí, vai trò của trí tuệ Việt Nam. Giải pháp này thể hiện trên ba cấp độ của chủ thể trí tuệ Việt Nam. Đó là phải nâng tầm cao nhận thức trí tuệ của Đảng và Nhà nước, sau đó là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho xã hội và cuối cùng là nâng cao trình độ học thức, trí tuệ cho người dân. Muốn vậy, cần phải xây dựng cho được hình mẫu người lao động trí tuệ Việt Nam với một hệ chuẩn các tiêu trí xác định, khả thi.
Mặt khác, cần tham khảo kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới về con đường, giải pháp để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng tầm cao trí tuệ của người Việt Nam trong tình hình mới. Trong đó, cần coi trọng việc học tập và vận dụng sáng tạo một bài học lớn của Bác Hồ khi Người coi: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Bởi lẽ, chính sự dốt nát là một nguyên nhân khiến nước ta bị ngoại xâm thống trị, chính sự dốt nát là nguyên nhân khiến chúng ta không thể đứng lên tự giải phóng mình, chính sự dốt nát là nguyên nhân khiến nước ta nghèo nàn, lạc hậu, tụt hậu. Rõ ràng, dốt nát là nguyên nhân của mất nước, nghèo nàn, lạc hậu thì ngược lại, xây dựng và phát triển nguồn lực trí tuệ chính là động lực để phát triển đất nước. Chìa khóa để mở ra con đường đưa nước ta tiến lên, trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2050, không có gì khác mà chính là tài sản trí tuệ - vốn liếng quý nhất của dân tộc. Điều đó chỉ có thể đạt được khi và chỉ khi nào chúng ta thực sự coi giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đầu tư cho hai lĩnh vực này là đầu tư cho phát triển.
Nói một cách khác, nước ta chỉ có thể trở thành con rồng châu Á khi và chỉ khi trí tuệ được coi trọng. Trong quá trình chấn hưng đất nước, chúng ta cần sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhưng nguồn này đang bị khai thác cạn kiệt và đến một ngày nào đó sẽ không còn. Nguồn vốn và của cải duy nhất để có thể phát triển đất nước mà không sợ cạn kiệt và ô nhiễm môi trường là tri thức, trí tuệ. Đây là nguồn vốn, của cải vô tận của chúng ta; chính nó sẽ là động lực để nước ta bước vào nền kinh tế tri thức. Chính nó là sự cứu nguy quá trình chảy máu chất xám đang diễn ra trầm trọng ở nước ta. Có thể khẳng định rằng, chưa bao giờ trí tuệ, tri thức, khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo được tôn vinh như hiện nay nhưng cũng chưa bao giờ, Đảng, Nhà nước lại lo ngại đối với những hậu quả của sự phát triển trí tuệ, tri thức, khoa học, công nghệ lại lớn như hiên nay. Bởi vì, trí tuệ chỉ là một nguồn lực trong quá trình phát triển đất nước. Do đó, nó không phải là yếu tố duy nhất. Đề cao trí tuệ là cần thiết nhưng quá trình phát triển đất nước không thể thiếu đạo đức, đạo lý và pháp lý. Vì lẽ đó, phát triển trí tuệ Việt Nam phải có định hướng đúng đắn để trí tuệ Việt Nam phục vụ tốt sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tôn vinh hiền tài, nhân tài trên cơ sở lấy đạo đức làm gốc. Trí tuệ có vị trí, vai trò quan trọng nhưng chỉ đơn độc trí tuệ thì không thể đem đến những điều tốt đẹp cho con người và xã hội Việt Nam.
Để phân định một cách rõ ràng những việc cần làm, nên làm và những việc không nên làm trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì nhất thiết Đảng phải nâng cao năng lực trí tuệ của mình. Đây là yếu tố cần thiết để làm cho Đảng ta luôn xứng đáng là đạo đức, là văn minh. Đó cũng là tinh thần cốt lõi nhất của triết lý giáo dục Việt Nam hiện đại mà Đảng và Nhà nước là lực lượng tiên phong, đi đầu trong việc xây dựng xã hội ta là xã hội đạo đức, là xã hội văn minh./.

Cơ sở lý luận nâng cao năng lực trí tuệ của Đảng

Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được; quá trình đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã và đang bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm, không chỉ ở năng lực thực tiễn, mà cả ở năng lực tư duy lý luận, năng lực hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách; trong đó, những hạn chế, yếu kém về năng lực trí tuệ của một đảng cầm quyền rất cần được nhận thức thấu đáo và giải quyết hiệu quả hơn. Góp phần làm rõ cơ sở lý luận - thực tiễn nâng cao năng lực trí tuệ của Đảng trong tình hình mới, trong bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích, luận giải các vấn đề về quan niệm, bản chất và vai trò của trí tuệ và các vấn đề liên quan; các khâu căn cốt nhất, cần và đủ để đề xuất giải pháp nâng cao năng lực, trình độ trí tuệ cho cán bộ, đảng viên; góp phần nâng tầm cao uy tín, vị thế của Đảng ta - một đảng cầm quyền, lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới.
Ngày nay, khoa học hiện đại đã chúng minh rằng, trí tuệ là một năng lực riêng có của con người. Trí tuệ hiện diện trong mọi mặt đời sống, hoạt động của con người và tổ chức; là một đặc trưng mang bản chất nhân cách. Do đó, con người không thể tồn tại với tư cách là con người nếu không có trí tuệ hoặc con người bị thiểu năng trí tuệ, bộ óc bị tổn thương. Dù khoa học đã phát triển nhưng cho đến tận ngày nay, trong học thuật, vẫn chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh về khái niệm “trí tuệ” được mọi người chấp nhận, thừa nhận với ý nghĩa là chính thống và do đó, rất khó khăn trong việc vận dụng, luận bàn cần phải làm gì và làm như thế nào để nâng cao năng lực, trình độ trí tuệ cho con người khi mà bản thân nó chưa được định dạng rõ ràng, luận giải tường minh. Điều gợi mở, khiến chúng tôi “tò mò”, muốn đi sâu tìm hiểu xem “cái gốc của trí tuệ” là gì và các nhà khoa học đã khám phá nó đến đâu.
Việc tìm hiểu ngữ nghĩa với vai trò “chỉ rõ mặt, đặt đúng tên” đã dẫn dắt chúng tôi tìm đọc Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh. Theo học giả này, “trí tuệ” là “thông minh, sự linh hoạt (intelligence parfaite)” [1]. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, trí tuệ được định nghĩa là “khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình độ nhất định”[2]. Trong Từ nguyên[3], trí tuệ được xác định: a. thông minh, tài trí; b. sức mạnh nhận thức, chứng thực chân lý. Trong tiếng Anh, từ “intelligence” có nghĩa là chất lượng của sự thông minh hay sáng suốt và là “năng lực suy nghĩ, lập luận và hiểu biết”. Theo Oxford Advanced Learners Dictonary, “intelligence” có nghĩa là “khả năng làm tốt việc học, hiểu và suy nghĩ theo lôgíc về mọi mặt”. Điểm qua quan niệm của một số bộ từ điển có uy tín trên thế giới cho thấy, đến nay quan niệm về “trí tuệ” vẫn còn có nhiều khác biệt và nó cần phải tiếp tục nghiên cứu, sớm tìm lời giải đáp.
Tuy nhiên, điểm chung mà hầu hết các quan niệm đều phản ánh là khái niệm “trí tuệ” được sử dụng để chỉ trình độ, chất lượng cao của một loại hình hoạt động đặc thù của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, hoàn thiện nhất là bộ óc con người là nhận thức, tinh thần do bộ óc người tạo nên. Điều đó có nghĩa là, khái niệm trí tuệ không được dùng để chỉ toàn bộ hoạt động nhận thức, tinh thần mà chỉ phản ánh trình độ, chất lượng cao của hoạt động ấy. Người bị thiểu năng trí tuệ hay bị tổn thương bộ não, có khuyết tật ở bộ não, rối loạn thần kinh, tâm thần...không thể có trí tuệ. Vì vậy, cái quyết định để hoạt động nhận thức, tinh thần trở thành trí tuệ là trình độ, chất lượng của hoạt động ấy, sản phẩm của hoạt động ấy.
Sự khó khăn trong việc định dạng, tìm kiếm quan niệm chính xác về trí tuệ đã được các nhà khoa học đề ra một phương án dễ hơn khi cho rằng: a. nên đồng nhất trí tuệ với trí thông minh; định nghĩa trí tuệ thông qua định nghĩa trí thông minh vì trí thông minh thể hiện rõ hơn năng lực giải quyết các nhiệm vụ mới thông qua họat động tư duy; b. chỉ khi nào sự việc mới mẻ có được cách giải quyết tốt thì mới đạt đến trình độ trí tuệ; c. trí thông minh hay trí tuệ là sản phẩm của tư duy, gắn với quá trình tư duy; d. trí thông minh hay trí khôn gần nghĩa với trí tuệ, đó là khả năng hiểu biết, suy luận, sáng tạo, luôn thích nghi với sự biến đổi của hoàn cảnh, thời cuộc. Về khía cạnh này, trí thông minh và trí tuệ được xem xét chủ yếu trong mối quan hệ với nhận thức và giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trên cơ sở nền học vấn và trình độ tư duy. Cho nên, cần hiểu trí tuệ thông qua trí thông minh; còn trí thông minh lại do năng lực tư duy trừu tượng, năng lực thích ứng đóng vai trò nổi trội, quy định.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, giữa trí tuệ và trí thông minh cũng có những điểm khác nhau. Bởi, trí tuệ gắn liền với trí lực; trí tuệ dùng để chỉ năng lực chung nhờ sử dụng sự hiểu biết và các thao tác tư duy, giúp cho con người đạt được mục đích đề ra. Năng lực trí tuệ, hoạt động trí tuệ được coi là hoạt động diễn ra trước khi có hành động thực tế. Để có trí tuệ với đúng nghĩa, quá trình tư duy phải bám sát thực tiễn, thông qua các mối quan hệ, liện hệ chủ quan, khách quan. Về điểm này, không ít nhà khoa học cho rằng, không thể đề cao trí tuệ với tư cách là một phẩm chất bẩm sinh, ngay cả thiên tài cũng phải xuất phát từ thực tiễn đời sống xã hội, phụ thuộc vào sự tác động biện chứng của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
 Xem xét các khía cạnh nêu trên, chúng tôi cho rằng, dù muốn hay không, khi định nghĩa trí tuệ là gì không thể tách rời nó với quá trình nhận thức, hoạt động của ý thức mà ý thức chỉ riêng có ở con người, là đặc trưng hoạt động tinh thần của con người. Trí tuệ là khái niệm liên quan trực tiếp đến hoạt động nhận thức, đến năng lực lý tính của con người, tức là năng lực phản ánh gián tiếp hóa, khái quát hóa và trừu tượng hóa. Với ý nghĩa đó, trí tuệ gắn liền với hoạt động sáng tạo, đến năng lực giải quyết các vấn đề lý luận - thực tiễn. Nhờ đó, chúng ta có thể nhìn nhận rõ hơn nội hàm của khái niệm trí tuệ thông qua các đặc trưng cơ bản: a. trí tuệ thuộc về tâm lý hay là chức năng tâm lý của cơ thể con người, xã hội; b. trí tuệ thuộc cấp độ ý thức (liên quan đến các yếu tố tâm trí, trí năng, lý trí, tư duy); c. trí tuệ là năng lực nhận thức lý tính với các hình thức cơ bản của nó là khái niệm, phán đoán, suy luận. Trí tuệ là hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người; trong đó có hoạt động trí óc, tạo ra tri thức và tư tưởng. Trí tuệ biểu hiện qua trí thông minh, hoạt bát, lanh lợi, linh hoạt, hiểu biết sâu rộng, thành thạo, năng khiếu bẩm sinh, sáng dạ, dễ tiếp thu; thông thái, uyên bác, tầm nhìn xa, trông rộng, sáng tạo, độc đáo, tỉnh táo, sáng suốt, dí dỏm, hài hước; sôi nổi, hùng biện, có tham vọng, v.v.. Từ sự phân tích trên, để có thể tiếp cận dễ dàng hơn về trí tuệ và dễ dàng vận dụng trí tuệ vào cuộc sống; chúng tôi chọn cách hiểu trí tuệ là sự tổng hợp của năng lực nhận thức và năng lực thực tiễn của con người trong việc thích nghi một cách sáng tạo với hoàn cảnh và có hiệu quả với môi trường xung quanh. Theo đó, có thể hiểu sâu sắc về trí tuệ khi phân tích kỹ các khái niệm có liên quan, đó là chất xám, trí lực, trí năng, lý tính, tư duy, trí thức, tài năng, thiên tài./.


[1] Đào Duy Anh: Từ điển Hán - Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003, tr. 487.
[2] Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2004, tr.1034.
[3] Từ nguyên: Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2006, tr. 1442.