Sau khi chúng
ta đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, không có kẻ thù nào dám đánh
chúng ta; chỉ có những người nghĩ rằng, họ vẫn có thể đánh chúng ta và dám đánh
chúng ta là những kẻ phản động theo tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc. Nhưng nhân
dân Trung Quốc, hơn một tỷ người lại không nghĩ như thế và họ hoàn toàn không
muốn như thế. Họ muốn yên ổn làm ăn, mong muốn có hòa bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển; không muốn con em của họ phải chết chóc vì chiến tranh. Hơn ai
hết, nhân dân ta rất quý trọng hòa bình, mong muốn có hòa bình, được sống trong
độc lập, tự do; ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới.
So với nhiều
dân tộc khác, nhân dân ta đã chịu quá nhiều đau thương, tang tóc bởi hai cuộc
chiến tranh hơn một trăm năm do thực dân Pháp và đế quốc Mỹ gây ra. Nhưng “cây
muốn lặng mà gió chẳng muốn đừng”. Trong giới cầm quyền Trung Quốc, một bộ phận
hiếu chiến, phản động, có tư tưởng bành trướng, có tham vọng làm bá chủ thế
giới đã phớt lờ điều ấy; không thèm đếm xỉa đến nỗi đau của người khác, dân tộc
khác. Họ ngấm ngầm chuẩn bị mọi mặt, chờ thời cơ để thực hiện “giấc mộng Trung
Hoa” như một sản phẩm “độc chiêu” mang ý thức hệ “cha truyền con nối”. Họ không
muốn để chúng ta yên; hoàn toàn không muốn chúng ta phát triển, lớn mạnh dưới
sự “bảo trợ của Liên Xô” và các nước xã hội chủ nghĩa khác, đúng như những ngôn
từ họ vẫn nói “dưới bầu trời này chỉ có người Trung Hoa là chủ, được quyền cai
trị thế giới”. Điều đó cho thấy rằng, chừng nào còn tồn tại những kẻ phản động,
bành trướng Trung Quốc thì chừng ấy, họ sẽ vẫn nuôi dưỡng và quyết tâm thực
hiện mưu đồ thôn tính nước ta; từ chèn ép, áp đặt đến tấn công, lấn chiếm và tiến
tới tước đoạt biển Đông cũng như đất liền của chúng ta.
Là một đất
nước đất không rộng, người không đông, khoa học, kỹ thuật và công nghệ còn lạc
hậu, kinh tế kém phát triển, nhưng nhân dân ta lại có một tài sản vô giá mà
nước khác không có là lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc; không
bao giờ chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù hung bạo nào, dù chúng có quân
hùng, tướng mạnh, lắm tiền, nhiều của, vũ khí tối tân, hiện đại, tự xưng mình
là có sứ mệnh đi “khai hóa văn minh”, “truyền bá tư tưởng nhân đạo” cho dân tộc
khác. Lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm để dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam
đã chứng minh điều đó.
Vì vậy, khi
thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên tấn công chúng ta ở Đà Nẵng, thì ngay lúc
ấy, ông cha ta, không kể đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, đã dũng cảm
đứng lên chống lại quân xâm lược và bè lũ tay sai, cứu nước, cứu nhà. Sau bao
nhiêu năm “nếm mật nằm gai”, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
nhân dân và quân đội ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy
năm châu, chấn động địa cầu”. Thế nhưng, đế quốc Mỹ đã hất cẳng Pháp, nhảy vào
xâm lược nước ta và cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống quân xâm
lược - tên đế quốc đầu sỏ đã kéo dài hơn 21 năm, làm cho gần 3 triệu chiến sĩ,
đồng bào Việt Nam phải hy sinh, hàng vạn gia đình nhà tan, cửa nát.
Đất nước ta đã
giành được độc lập, tự do bằng chính xương máu, nước mắt, mồ hôi và công sức
của cả một dân tộc không sợ Mỹ, dám đánh Mỹ và biết thắng Mỹ. Điều này đã được
cả thế giới thừa nhận: Trong thế giới hiện đại, chỉ có người Việt Nam là dám
đấu tranh chống đế quốc Mỹ còn cả thế giới đều sợ Mỹ. Khi Trung Quốc giúp Bắc
Triều Tiên bảo vệ sườn phía Bắc của họ và cuộc chiến này kết thúc, thắng lợi
thuộc về phía Triều Tiên và những người “dang tay giúp họ” thì áp lực đặt lên
Việt Nam. Những người có tư tưởng bành trướng trong giới cầm quyền chóp bu ở Trung
Quốc đã rất muốn Việt Nam chúng ta đi theo con đường của Triều Tiên, đứng hoàn
toàn về phía họ, ủng hộ và tạo mọi điều kiện để họ “mở con đường xuống phía
Nam”, làm bá chủ khu vực...
Những người
có tư tưởng bành trướng trong giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã yêu cầu
chúng ta chấp nhận để Trung Quốc “giúp chúng ta về mọi mặt”, kể cả trong kháng
chiến và trong kiến quốc. Điều đó có nghĩa là, chúng ta phải cắt đứt mọi quan
hệ với Liên Xô, không được nhận bất cứ thứ gì từ phía Liên Xô, kể cả viện trợ
nhân đạo. Một trong những người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc có
tư tưởng bành trướng đã nói thẳng thừng rằng, nếu Việt Nam tiếp tục theo Liên
Xô để chống Mỹ thì sẽ phải tự lo liệu mọi thứ; Trung Quốc sẽ không giúp Việt
Nam thêm một thứ gì nữa, kể từ sau khi Việt Nam đánh bại thực dân Pháp. Họ đã ra
sức cản trở, gây áp lực đối với chúng ta để Việt Nam không thể chiến đấu chống Mỹ. Nếu
chúng ta tiếp tục không “nghe lời khuyên” của họ, không chấp nhận sự “mặc cả” của
họ thì họ “sẽ dạy cho chúng ta một bài học”.
Vào thời điểm
chiến trường Điện Biên Phủ đi đến hồi kết, chúng ta chiến thắng như “chẻ tre”,
buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán, ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ để
lập lại hòa bình ở Việt Nam, thì cũng chính vào thời điểm ấy, người đứng đầu
Chính phủ Trung Quốc đã tạo cớ với nhiều lý do khác nhau, cố tình trì hoãn, làm
khó cho chúng ta trong các lần đàm phán và chính con người này đã nêu quan điểm
và đề nghị hội nghị các bên chia cắt đất nước ta làm hai phần Nam - Bắc. Một
lần nữa, những người có tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc đã gây sức ép lên
chúng ta, buộc chúng ta không được làm gì đối với miền Nam Việt Nam, dù biết nơi
đó là máu thịt của chúng ta, là đồng bào, đồng chí ruột thịt của chúng ta. Giới
cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc rất sợ Mỹ; không dám đụng đến Mỹ, dù họ luôn
thừa nhận chính là họ là nước lớn, còn chúng ta chỉ là nước nhỏ, không thể đánh
được Mỹ.
Khi chúng ta
thực hiện chiến tranh du kích ở miền Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, đích danh người
đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã nói với các đồng chí trong Bộ
Chính trị của chúng ta rằng, ngay lập tức, chúng ta phải chuyển hai tỉnh đã
được Quân đội nhân dân Việt Nam giúp bạn giải phóng cho Chính phủ Viên Chăn,
nếu không người Mỹ sẽ phẫn nộ, trả đũa, tiêu diệt hai tỉnh này; gây tổn hại đến
Trung Quốc. Để bảo vệ bộ đội tình nguyện của chúng ta; ngay sau đó, Việt Nam đã
phải làm việc với người Mỹ để giải quyết các vấn đề có liên quan đến sự kiện
này. Người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc liên tục bức hiếp chúng
ta bằng cách này, cách khác, buộc chúng ta phải làm các điều mà chúng ta không
muốn làm; song đã buộc phải làm theo ý họ với hy vọng: tiếp tục giữ thế cân
bằng trong quan hệ, làm những việc có lợi cho cách mạng Việt Nam; nhận được sự
viện trợ của họ. Sau đó hai tỉnh này đã được chuyển giao cho Viên Chăn.
Tại cuộc gặp gỡ
và làm việc với một số cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc thời đó,
đồng chí Lê Duẩn đã đề nghị hãy để cho Lào được tiến hành chiến tranh du kích
và một nhóm cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp đoàn cán bộ cao
cấp của Việt nam đã đồng ý. Tuy nhiên, ngay sau đó, người đứng đầu tối cao của giới
chóp bu ở Trung Quốc đã trì trích nhóm cán bộ cao cấp này vì đã chấp thuận đề
nghị của chúng ta. Người đứng đầu tối cao Nhà nước Trung Quốc đã nói với chúng
ta rằng, Việt Nam không được
phát động chiến tranh du kích ở miền Nam để chống Mỹ vì Mỹ quá mạnh.
Việt Nam
phải nằm chờ trong một thời gian dài. Lúc đó, chúng ta buộc phải nghe theo giới
cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc vì chúng ta rất nghèo, nếu không có Trung Quốc
làm căn cứ, hậu thuẫn thì chúng ta không thể đánh Mỹ. Khi Ngô Đình Diệm kéo lê
máy chém khắp miền Nam, gây nhiều tội ác cho đồng bào ta, buộc chúng ta phải
đứng lên đấu tranh chống lại quân xâm lược và không “nghe lời Trung Quốc” thì
họ đùng đùng nổi giận, đe dọa cắt đứt viện trợ cho chúng ta.
Một trong
những nhân vật có uy tín trong giới cầm quyền có tư tưởng bành trướng ở Trung
Quốc đã nói với đồng chí Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng ta rằng: “Bây giờ sai
lầm của đồng chí đã xảy ra rồi, đồng chí chỉ nên đánh ở mức trung đội trở
xuống”. Đó là áp lực mà giới cầm quyền chóp bu có tư tưởng bành trướng ở Trung
Quốc đặt lên chúng ta. Sau khi chúng ta chiến đấu hiệu quả, đột nhiên người
đứng đầu tối cao của giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc lại có suy nghĩ mới:
Vì Mỹ đánh Việt Nam,
Trung Quốc sẽ đưa quân đội giúp chúng ta xây dựng đường sá. Mục tiêu chính của họ
là tìm hiểu tình hình đất nước ta để sau này có thể tấn công chúng ta và mở
rộng con đường xuống khu vực Đông Nam Á, độc chiếm biển Đông; ngoài ra không có
lý do nào khác. Người đứng đầu tối cao của giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc
đã ép chúng ta phải nhận 20.000 quân của ông ta để làm con đường từ Nghệ Tĩnh
vào Nam Bộ nhưng Đảng, Nhà nước ta không chấp nhận vì biết rõ âm mưu, thủ đoạn
muốn áp đặt sự thống trị của họ lên đất nước chúng ta; muốn ăn cướp nước ta từ
lâu và đó là cơ hội để họ thực hiện âm mưu độc ác ấy, nếu chúng ta đồng ý,
ngoan ngoãn làm theo ý họ sẽ mắc mưu của họ.
Sau khi đế
quốc Mỹ đưa hàng trăm ngàn quân vào miền nam Việt Nam, chúng ta buộc phải phát
động cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào Tết Mậu Thân năm 1968 để buộc Mỹ giảm
leo thang, chặn đường chúng đánh phá ra miền Bắc. Nếu chúng ta không làm cho Mỹ
giảm leo thang từng bước thì chúng ta sẽ thất bại vì lúc đó, chúng ta chưa đủ
sức mạnh đẻ đánh lại chúng, tiêu diệt kẻ thù, giải phóng đất nước. Tuy đã phải
trả giá đắt, song đế quốc Mỹ đã run sợ chúng ta, tình thế đã buộc đế quốc Mỹ
phải ngồi vào bàn đàm phán với chúng ta. Trong hoàn cảnh đó, Đại sứ Trung Quốc
Hô Wei đã viết thư gửi đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và yêu cầu: Chúng ta
không thể ngồi vào bàn đàm phán với Hoa Kỳ. Chúng ta phải để quân Mỹ vào miền
Bắc Việt Nam
và đánh nhau với Mỹ. Vì sao lại có câu chuyện ấy? Bởi vì, người Mỹ đã “móc
ngoặc”, “thỏa thuận ngầm” với giới cầm quyền tối cao có tư tưởng bành trướng ở Trung
Quốc về những lợi ích mà họ sẽ được hưởng sau khi bọn bành trướng Trung Quốc
nắm được quyền thống trị chúng ta một cách hoàn toàn.
Nhận rõ bản
chất cuộc “mua bán” giữa hai bên Mỹ - Trung, chúng ta đã không làm theo yêu cầu
của phía nào. Chúng ta tự quyết định con đường đi của riêng mình, vẫn quyết tâm
“đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”. Vì vậy, người đứng đầu giới cầm quyền chóp
bu ở Trung Quốc đã nổi cơn thịnh nộ, ông ta đã thông báo cho phía Mỹ: “Nếu các
ông không tấn công tôi, tôi sẽ không tấn công các ông; do đó, các ông có thể
đưa bao nhiêu quân lính vào Việt Nam là tùy theo ý muốn của các ông”.
Người đứng
đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã trao đổi nhiều điều “bí mật” với Mỹ
và ép buộc chúng ta ngày càng trắng trợn, nhất là sau khi chúng ta giành thế
chủ động trên chiến trường miền Nam. Lúc đó, người Mỹ nhận ra rằng, họ đã thua
trận, ngay lập tức, họ đã sử dụng Trung Quốc như một “con bài che chắn” để tạo
điều kiện rút quân “nhanh, gọn” ra khỏi miền Nam Việt Nam; không để quân Mỹ lún
sâu vào sa lầy ở nước ta. Ních sơn và Kissingger đã đến Trung Quốc để thảo luận
về vấn đề này. Mục đích của họ là giảm bớt thất bại của Mỹ ở Việt Nam và lôi
kéo Trung Quốc đứng về phía Mỹ, chống Việt Nam và Liên Xô, các nước trong phe
xã hội chủ nghĩa. Ngay sau đó, Thủ tướng Chính phủ Trung Quốc đã nói với đồng
chí Lê Duẩn rằng, Việt Nam
phải nghe theo ý kiến của Trung Quốc vì tình hình rất căng thẳng, ngặt nghèo.
Nếu người Mỹ tức giận, có thể họ sẽ ném bom nguyên tử ở Việt Nam. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến Trung Quốc.
Thực hư còn
nhiều điều chưa rõ nhưng chúng ta đã cân nhắc kỹ lưỡng và thẳng thừng bác bỏ
điều ấy. Chúng ta đã quyết tâm đánh Mỹ, không hề run sợ trước sự đe dọa, khủng
bố tinh thần rất hung hăng từ phía những người theo chủ nghĩa bành trướng Trung
Quốc. Chúng ta đã quyết tâm “dù có phải đốt cháy cả dẫy Trường Sơn cũng phải
giành cho được độc lập”. Mỗi cố gắng của quân và dân ta là để khắc phục sai lầm
của người đứng đầu Chính phủ Trung Quốc vì đã chia cắt đất nước ta thành hai
miền Nam Bắc tại Hội nghị Giơ-ne-vơ. Sau cuộc gặp gỡ giữa Ních sơn và
Kissingger với giới cầm quyền chóp bu có tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc, Mỹ
đã ráo riết tấn công chúng ta. Trong hoàn cảnh đó, người đứng đầu Chính phủ
Trung Quốc đã mặc cả với đồng chí Lê Duẩn: nếu chúng ta đánh Mỹ thì Trung Quốc
sẽ gửi thêm súng đạn, lương thực, thực phẩm cho Việt Nam. Tính hai mặt của Trung Quốc đã
quá rõ ràng. Mọi động thái của giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đều muốn
chúng ta suy yếu, nếu chúng ta muốn tồn tại thì buộc phải cầu xin họ giúp đỡ, từng
bước phụ thuộc hoàn toàn vào họ, đi đến làm nô lện cho họ.
Nhìn lại lịch
sử hiện đại cho thấy, nếu Liên Xô và Trung Quốc không có mâu thuẫn với nhau thì
Mỹ đã không thể tấn công, xâm lược nước ta. Để chống Mỹ, chúng ta phải dựa vào
Trung Quốc và các nước khác nhiều thứ. Lúc đó, hàng năm, nhân dân Trung Quốc đã
cung cấp, viện trợ cho chúng ta khoảng 500 nghìn tấn lương thực, súng ống, đạn
dược, tiền bạc, chưa kể đến viện trợ đôla. Phải thừa nhận rằng, nếu không có
viện trợ ấy thì chúng ta sẽ vô cùng khó khăn. Để có được điều đó, mỗi năm Đảng
ta phải cử vài đoàn cán bộ cấp cao đi Trung Quốc để thương thuyết với họ; nhờ
họ tiếp tục viện trợ cho chúng ta đánh Mỹ. Trung Quốc đã ra điều kiện và gây áp
lực cho chúng ta, buộc chúng ta phải xa lánh Liên Xô, cấm chúng ta không được
đi với Liên Xô. Người đứng đứng đầu Chính phủ Trung Quốc thời đó đã nói với
đồng chí Lê Duẩn: “Trung Quốc sẽ giúp đồng chí vài tỉ mỗi năm; đồng chí không
thể nhận bất cứ thứ gì từ Liên Xô”. Đảng, Nhà nước ta đã không đồng ý điều đó
vì muốn thắt chặt tình đoàn kết gắn bó giữa các nước xã hội chủ nghĩa; mong
muốn Liên Xô, Trung Quốc - hai nước xã hội chủ nghĩa không mất đoàn kết, cùng
giúp chúng ta đánh Mỹ.
Năm 1963, người
đứng đầu giới cầm quyền chóp bu có tư tưởng bành trướng ở Trung Quốc đã gặp
đồng chí Bí thư Trung ương Đảng ta và tuyên bố “Tôi muốn nói cho các đồng chí
biết điều này. Tôi là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất và tôi sẽ
mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á”. Đặng Tiểu Bình cùng tiếp Đoàn
cán bộ cao cấp của Đảng ta cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ yếu là vì nông dân
nghèo trong tình cảnh khó khăn cùng cực”. Ngay sau đó, đồng chí Lê Duẩn đã nói
với đồng chí Trường Chinh: “Anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á bây
giờ đã rõ rồi”.
Người đứng
đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc đã hỏi đồng chí Lê Duẩn: Lào có bao
nhiêu cây số vuông đất? Đồng chí Lê Duẩn trả lời: khoảng 200 cây số vuông, Ông
ta lại hỏi dân số của họ bao nhiêu? Khoảng 3 triệu. Đồng chí Lê Duẩn trả lời. Ông
ta nói ngay rằng, như vậy là không nhiều. Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà. Ông
ta lại hỏi có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan? Khoảng 5 trăm nghìn cây số
vuông. Đồng chí Lê Duẩn trả lời. Ông ta lại hỏi có bao nhiêu người? Khoảng 40
triệu. Lúc đó, ông ta nói ngay rằng, tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500 nghìn
cây số vuông nhưng có tới 90 triệu người, tôi cũng sẽ đưa một số người dân tôi
tới Thái Lan. Ông ta muốn chiếm Lào, Thái Lan, đồng thời muốn chiếm tất cả các
nước Đông Nam Á và đưa người dân của họ đến sống ở đó.
Quan điểm này
của người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung Quốc bộc lộ rõ từ năm 1963.
Để đối phó với Mỹ, trong giới cầm quyền và nhân dân Trung Quốc cũng có nhiều loại
ý kiến khác nhau, Thủ tướng Trung Quốc muốn thành lập mặt trận liên minh với
Liên Xô để chống Mỹ vì hai nước này đã có một hiệp ước hữu nghị từ tháng 2 năm
1950 nhưng quan điểm ấy đã bị người đứng đầu giới cầm quyền chóp bu ở Trung
Quốc bác bỏ. Phải nói rằng, người kiên quyết nhất ra sức truyền bá, bảo vệ quan
điểm bành chướng và cũng là người có tinh thần Đại Hán, muốn chiếm Đông Nam Á,
chiếm đoạt biển Đông của chúng ta chính là người đứng đầu Trung Quốc. Tất cả
các chính sách của Trung Quốc nhằm mở con đường xuống phía Nam đều do ông
ta định ra. Khi chúng ta giải phóng miền Nam, một số cán bộ cao cấp của Đảng
Cộng sản Trung Quốc có đến chúc mừng chúng ta. Vì lý do này, họ bị quy kết là
theo chủ nghĩa xét lại. Để chứng minh là mình không theo chủ nghĩa xét lại, số
cán bộ này đã quay ngược 180 độ để tấn công Việt Nam một cách dữ dội và quyết liệt.
Chiến tranh Biên giới Tây Nam
và chiến tranh Biên giới Tây Bắc đều nằm trong sự tính toán ấy.
Sau khi đánh
bại đế quốc Mỹ, chúng ta giữ lại hơn 1 triệu quân, các đồng chí lãnh đạo Liên
Xô có hỏi chúng ta tại sao Việt Nam
lại giữ lại một đội quân thường trực lớn như vậy. Đồng chí Lê Duẩn đã trả lời: Có
lý do chính đáng, sau này các đồng chí sẽ hiểu. Lý do đó là gì? Là do mối đe
dọa trực tiếp, rất nguy hiểm của giới cầm quyền phản động Trung Quốc theo chủ
nghĩa bành trướng, kiên quyết chống đối Việt Nam, muốn thôn tính Việt Nam; muốn
biến Việt Nam thành quận, huyện của họ.
Trong quá
khứ, Việt Nam
đã không sợ Mỹ và Trung Quốc. Trong hiện tại, Việt Nam vẫn không sợ Mỹ và không hề sợ
bọn phản động bành trướng Trung Quốc. Giới cầm quyền phản động bành trướng ở Trung
Quốc luôn ở thế phòng thủ và sợ chiến tranh, ngay cả 400 triệu người dân Trung
Quốc đã không đọ sức nổi đội quân Nhật có 300 nghìn người. Khi bọn bành trướng Trung
Quốc mang hàng trăm ngàn quân vào xâm lược nước ta năm 1979, chúng ta không ở
thế thủ; kiên quyết chống trả họ, buộc họ phải lùi bước. Chỉ có chúng ta mới có
thể làm được điều đó, còn Trung Quốc thì không thể, ngay cả khi họ lợi dụng
tình hình thế giới, khu vực có nhiều bất ổn, rối ren, đã ngang nhiên hạ đặt
trái phép giàn khoan HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
Việt Nam; chúng không hề sợ họ, đã kiên quyết chống lại những kẻ xâm lược, bành
trướng; kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Hiện nay,
chúng ta chiến đấu chống quân bành trướng Trung Quốc về việc độc chiếm biển
Đông dù còn nhiều khó khăn nhưng chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng. Nếu giới
cầm quyền phản động ở Trung Quốc và phái tài phiệt ở Nga dù có thống nhất với
nhau hoặc Trung Quốc và Mỹ “móc ngoặc với nhau”, cũng vẫn vậy. Chúng ta sẽ biết
cách tự bảo vệ mình bằng chính lòng yêu nước, yêu Tổ quốc và sự dũng cảm, gan
dạ và sáng tạo của chúng ta. Có thể sự cấu kết của các nước lớn vì lợi ích của
họ ít nhiều sẽ gây tổn hại cho đất nước ta nhưng bài học lịch sử đã chứng minh
rằng, chúng ta quyết tâm chống quân xâm lược đến cùng; biết đánh và biết thắng
chúng trong mọi tình uống, dù đó là kẻ thù xâm lược nào. Việt Nam kiên quyết
không để quân xâm lược bành trướng Trung Quốc thực hiện “giác mơ Trung Hoa”, độc
chiếm biển Đông, không để chúng mượn đường mở rộng xuống phía Nam xâm lược các
nước Đông Nam Á. Việc giới cầm quyền phản động theo chủ nghĩa bành trướng Trung
Quốc xâm lấn, muốn độc chiếm biển Đông không có gì là bất ngờ, mà là một tất
yếu, thể hiện rõ âm mưu, thủ đoạn đen tối của họ là muốn làm bá chủ khu vực,
tiến tới làm bá chủ thế giới, gạt Mỹ ra khỏi địa hạt châu Á - Thái Bình Dương,
Đông Nam Á, từ nhiều năm nay. Điều đó là quá rõ ràng.
Vì vậy, chúng
ta phải chuẩn bị cuộc chiến lâu dài, phải nhìn nhận cho rõ bản chất, âm mưu,
thủ đoạn thâm độc của bọn bành trướng, phản động Trung Quốc: muốn độc chiếm
biển Đông, chiếm đất và đưa người của họ xuống sống ở các nước Đông Nam Á; đồng
thời, chế ngự sự phản công, “xoay trục của Mỹ”, vì lợi ích của họ; gây khó dễ
cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước đây chúng ta đã không
sợ Mỹ, không sợ bọn bành trướng xâm lược đến từ Trung Quốc thì nay, chúng ta
quyết không sợ chúng. Cả thế giới sẽ ủng hộ chúng ta vì chúng ta đứng về phía
chính nghĩa; chúng ta bị đe dọa, bị các nước lớn cậy thế ăn hiếp, bắt nạt.
Chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục có phương cách đúng đắn, sáng tạo để đánh
thắng quân xâm lược dù là nước ta còn nghèo. Vì vậy, để chống lại quân xâm lược
bành trướng Trung Quốc, chúng ta không chỉ biết có chiến đấu mà phải biết làm
cho chúng ta mạnh hơn nữa. Quân với dân một ý chí; toàn dân, toàn quân đoàn kết
chặt chẽ bên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nhà nước ta để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Hiện nay, âm mưu, thủ đoạn của giới cầm quyền chóp
bu phản động, bành trướng ở Trung Quốc đã hiện nguyên hình, lộ rõ thông qua
cuộc chiến tranh biên giới phía Nam, phía Bắc năm 1979 và hạ đặt giàn khoan HD
981 trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Chúng
ta đồng tâm, nhất trí, kiên quyết chống bè lũ phản động Bắc Kinh, bọn bành
trướng xâm lược đến từ Trung Quốc và các nước khác; chúng ta không chống nhân
dân Trung Quốc và tha thiết muốn đoàn kết với họ, với nhân dân yêu chuộng hòa
bình thế giới vì lẽ phải, công lý để chống lại mọi bất công, bất bình đẳng; bảo
vệ hòa bình, độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.
Vì vậy, chúng
ta hãy kiểm soát tình hình chặt chẽ, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và không
bao giờ lơi lỏng sự cảnh giác trước bất cứ âm mưu, thủ đoạn vô cùng thâm hiểm
của quân xâm lược. Đối với chúng ta, Tổ quốc là thiêng liêng, bất khả xâm phạm./