Quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng nền quốc phòng
toàn dân gắn với xây dựng, củng cố thế trận an ninh nhân dân là những quan điểm
lớn, rất cơ bản, luôn nhất quán của Đảng ta; có vị trí, vai trò đặc biệt quan
trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng bảo vệ Tổ quốc; liên quan trực tiếp đến
sinh mệnh, sự sống còn của chế độ, của quốc gia dân tộc Việt Nam. Trong các
giai đoạn khác nhau của cách mạng, các quan điểm cơ bản của Đảng ta về các vấn
đề nêu trên luôn được bổ sung, phát triển và hoàn thiện, phù hợp với sự vận động,
biến đổi của tình hình thế giới, khu vực và tình hình thực tiễn xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cùng với quá
trình phát triển tư duy lý luận về quốc phòng, quan niệm, nhận thức về an ninh
quốc gia của Đảng ta đã có bước phát triển mới: từ quan niệm an ninh quốc gia
chủ yếu là các vấn đề liên quan đến nội bộ, gắn với việc gìn giữ sự ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội đến nhận thức ở tầm chiến lược: an ninh tổng
hợp, toàn diện; trong đó xác định rõ: mục tiêu, nhiệm vụ trọng yếu của an ninh
quốc gia không chỉ là giữ vững sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội mà
còn góp phần xây dựng và phát triển bền vững nền quốc phòng toàn dân, nền an
ninh nhân dân, tạo môi trường hòa bình để nhân dân an tâm đẩy mạnh sản xuất,
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh; đấu tranh, phòng,
chống tội phạm.
Từ
Đại hội VII, Đảng ta đã xác định: an ninh quốc gia không chỉ đơn thuần là an
ninh chính trị, an ninh thể chế mà còn là an ninh tổng hợp, toàn diện; trong đó
an ninh chính trị là cốt lõi, xuyên suốt; an ninh kinh tế là nền tảng. Đồng
thời, Đảng ta khẳng định: nền quốc phòng và nền an ninh mà chúng ta xây dựng là
nền quốc phòng, an ninh của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì vậy, chủ
trương của Đảng là phát động phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ
quốc, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng thế trận
lòng dân vững mạnh; khơi dậy, quy tụ và khai thác triệt để mọi thế mạnh, tiềm
năng vốn có nhằm giữ vững sự ổn định chính trị, phát triển một cách bền vững
mọi mặt của đất nước: từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại; đồng thời, nhấn
mạnh yêu cầu, nhiệm vụ, trọng tâm, trọng điểm của bảo vệ an ninh thể chế chính
trị, gắn bảo vệ an ninh thể chế chính trị với bảo vệ an ninh độc lập, chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia dân tộc Việt Nam.
Về
xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, Đảng ta chỉ rõ bốn nội dung lớn với bốn
tiềm lực cơ bản cần tập trung xây dựng, phát triển; đó là tiềm lực chính trị -
tinh thần, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học và công nghệ, tiềm lực quân sự
và mối quan hệ biện chứng giữa các tiềm lực ấy. Trước sự biến đổi phức tạp của
tình hình thế giới, khu vực và trong nước, nhất là sau khi chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên xô và Đông Âu sụp đổ, Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn và nhấn mạnh
vấn đề bảo vệ tổ quốc từ xa và xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trên cơ
sở phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng, thế mạnh của tiềm lực chính trị - tinh thần,
coi đây là một những điểm căn cốt nhất, bản chất nhất, mắt khâu quan trọng đặc
biệt để nâng cao sức mạnh tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang
và nhân dân ta, là cơ sở quan trọng để ngăn chặn, phòng chống tội phạm, bảo đảm
an ninh, trật tự ở Việt Nam.
Sau
khi Việt Nam gia nhập WTO, Đảng ta nhấn mạnh sự kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế
với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại với
kinh tế; đẩy mạnh xây dựng công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh; xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Để
xây dựng lực lượng quốc phòng và an ninh vững mạnh, luôn đáp ứng tốt yêu cầu
nhiệm vụ mới, Đảng ta khẳng định sức mạnh quốc phòng, an ninh là sức mạnh tổng
hợp của tất cả các lực lượng và của các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, ngoại giao... Trong đó, lực
lượng toàn dân là lực lượng đông đảo nhất, là chỗ dựa tin cậy, vững chắc nhất
của quốc phòng, an ninh, còn lực lượng vũ trang nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Trong chương IV: Bảo vệ Tổ quốc của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013, từ điều 64 đến điều 68, có ba lần hiến định: Lực lượng vũ
trang nhân dân là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và
an ninh nhân dân. Đồng thời chỉ rõ: Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại để bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh tình hình mới.
Có
thể thấy rằng, từ đại hội VII đến nay, Đảng ta đều nhất quán khẳng định Công an
nhân dân là lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân ngày càng trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp
cách mạng vẻ vang của Đảng; xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân phải
đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Trong
quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, tư duy lý luận của Đảng ta về
xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng, củng cố thế trận an
ninh nhân dân có bước phát triển mới, trong đó, Đảng ta khẳng định rõ: Xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, nhất là việc điều chỉnh, bố trí
các lực lượng, xây dựng các công trình phòng thủ trên các hướng, địa bàn chiến
lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nét nổi bật trong phát triển tư duy lý
luận của Đảng ta về lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là
nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn vai trò của xây dựng “thế trận lòng dân”, phát
huy nhân tố chính trị - tinh thần, nhất là tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn
kết, nhất trí, sự đồng thuận xã hội, ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng giặc
ngoại xâm, nội xâm; phòng chống tham nhũng, tệ quan liêu, lãng phí, đấu tranh,
phòng chống tội phạm; chiến thắng đói nghèo, lạc hậu trong xây dựng thế trận
quốc phòng, an ninh; coi đó là vấn đề trọng yếu, có vị trí chiến lược đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay; đem lại môi
trường hòa bình, ổn định chính trị, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân và
doanh nhân có vốn đầu tư nước ngoài an tâm sản xuất, kinh doanh, phát triển
kinh tế, xây dựng đất nước.
Về
xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân trong thời kỳ mới,
nhận thức của Đảng ta cũng có bước phát triển, nhất là việc tổ chức, bố trí,
phối hợp các lực lượng trong một chiến lược chung để phát huy thế mạnh của từng
lực lượng, từng địa phương, vùng miền; tạo mọi điều kiện thuận lợi để mỗi người
dân tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ vững ổn
định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, ngăn ngừa và phòng, chống tội phạm. Đó
là cơ sở để kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với xây
dựng và củng cố thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới.
Trong
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới, Đảng ta đã khẳng định rằng, củng cố, hoàn thiện thế trận quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân là một trong những nội dung cơ bản, trọng
yếu trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, trong xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân và an ninh nhân dân, Đảng ta luôn nhấn mạnh sự kết hợp chặt chẽ việc
xây dựng khu vực phòng thủ địa phương trong tổ chức, bố trí lực lượng quốc
phòng, an ninh thành phong trào quần chúng nhân dân rộng rãi, mọi người dân đều
có quyền lợi và nghĩa vụ tham gia phong trào an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trong xây
dựng và bố trí lực lượng quốc phòng, an ninh nòng cốt, Đảng ta chú trọng xây
dựng mạng lưới bí mật, làm trong sạch địa bàn, đẩy mạnh trao đổi thông tin quân
sự, quốc phòng...giữa quân đội, công an và nhân dân, sớm phát hiện các phần tử
xấu, có tư tưởng, hành vi chống đối chế độ để quản lý, giáo dục, thuyết phục;
không để các “ổ dịch” gây mầm xấu, ảnh hưởng đến trật tự trị an, bạo loạn xã
hội...
Về
chiến lược giáo dục và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ,
chiến sĩ và nhân dân, Đảng ta coi đây là bộ phận chiến lược chủ đạo của chiến
lược con người, chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Cho đến nay, dù chưa xây dựng được
văn bản pháp lý của chiến lược này, song các nội dung cơ bản của chiến lược
quốc phòng, chiến lược an ninh quốc gia đã được hình thành và ngày càng được bổ
sung, hoàn thiện. Vừa qua, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Giáo dục Quốc
phòng và An ninh và điều đó đã chứng tỏ tư duy lý luận của Đảng ta về quốc
phòng, an ninh thật sự đã có sự phát triển mới, toàn diện và sâu sắc hơn.
Cùng với các vấn đề nêu trên, tư duy lý luận
của Đảng ta về đấu tranh quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc cũng có bước phát
triển, rõ nhất là nhận thức mới về vai trò, vị trí, nội dung, phương thức đấu
tranh quốc phòng, an ninh, phòng, chống tội phạm. Đảng ta chỉ rõ: Trong tình
hình mới, đấu tranh với các thế lực thù địch trong các tình huống về quốc
phòng, an ninh, đó là các tình huống tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển đảo,
biên giới; các tình huống gây rối, bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang, biểu
tình, ly khai và đấu tranh ngay trong nội bộ Đảng, Nhà nước, nhân dân nhằm ngăn
chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phòng, chống
“diễn biến hòa bình”, gây “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thực hiện “phi chính
trị hóa” lực lượng vũ trang có ý nghĩa rất quan trọng; trong đó, vai trò nòng cốt
của quốc phòng, an ninh là góp phần làm cho chế độ xã hội ta trong sạch, lành
mạnh hơn; kinh tế - xã hội phát triển hơn, niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà
nước, chế độ xã hội ta ngày càng được tăng cường và củng cố, phát triển và nó
cần khẳng định rõ hơn trong thực tiễn xây dựng và BVTQ hiện nay.
Trong
đấu tranh quốc phòng, an ninh, Đảng ta đã khẳng định: lấy phương thức đấu tranh phi vũ trang là chủ yếu. Đối
với nội bộ, lấy nêu gương, giáo dục, thuyết phục là chính nhưng phải kiên quyết
đối với lực lượng tội phạm, bọn cầm đầu, ngoan cố. Đối với các tình huống quốc
phòng, an ninh liên quan đến yếu tố nước ngoài thì kiên trì nguyên tắc, giải
quyết bằng các biện pháp đàm phán, đối thoại, thương lượng hòa bình với các
sách lược linh hoạt, mềm dẻo để khẳng định và bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc
gia dân tộc Việt Nam; kiên quyết không để xẩy ra các tình huống bất ngờ, bất
lợi; không để mất đất, mất đảo, mất dân, mất chế độ. Trong mọi tình huống, luôn
coi trọng việc kết hợp chặt chẽ lực lượng quốc phòng với lực lượng an ninh. Lấy
xây dựng là chính, trong đó xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh gắn với
xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện làm nội dung chính.
Bên
cạnh những thành tựu nêu trên, trong nhận thức về việc kết hợp kinh tế với quốc
phòng, an ninh, đối ngoại và ngược lại, có lúc một bộ cán bộ, phận nhân dân còn
coi nhẹ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, đề cao lợi ích kinh tế,
ham làm giàu; thậm chí còn có nhận thức cho rằng, cứ làm kinh tế giỏi, đất nước
giàu mạnh thì đương nhiên sẽ có quốc phòng, an ninh vững mạnh; họ không thấy rõ
tính phức tạp của mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa
kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; coi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh,
bảo vệ Tổ quốc là của riêng quân đội nhân dân và công an nhân dân.
Mặt khác, nhận thức về an ninh chưa đầy đủ,
coi an ninh quốc gia chỉ thuần túy là vấn đề nội bộ, thậm chí đó chỉ là vấn đề
trật tự, an toàn xã hội. Không thấy rõ vị trí, vai trò của an ninh quốc gia là
vấn đề lớn mang tầm chiến lược, liên quan đến sinh mệnh, sự sống còn của quốc
gia dân tộc Việt Nam; đó là an ninh tổng hợp, toàn diện, bao gồm an ninh thể
chế và an ninh chủ quyền quốc gia. Hiện nay, nhận thức về xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân
gắn gắn với xây dựng và củng cố thế trận an ninh nhân dân vẫn chưa thống nhất;
không ít người cho rằng, đó là công việc của quốc phòng, an ninh; thậm chí họ
đã tách rời quốc phòng và an ninh, coi quốc phòng là đối phó với giặc ngoài,
còn an ninh, chủ yếu là đối phó với thù trong, chủ yếu là tội phạm; không thấy
rõ mối quan hệ giữa bên trong và bên ngoài, quốc phòng và an ninh, quốc phòng
toàn dân và an ninh nhân dân.
Đến
nay, nhận thức về đấu tranh quốc phòng, an ninh có mặt chưa hoàn chỉnh. Trong
đó nhận thức về đấu tranh với các thế lực thù địch và nhiệm vụ của quốc phòng,
an ninh, bảo vệ Tổ quốc thì khá đồng thuận và dễ thống nhất nhưng nhận thức về
đấu tranh quốc phòng, an ninh trong nội bộ, trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...thì chưa đầy đủ, nếu không nói là
có lúc còn mơ hồ, thiếu kiên quyết, không triệt để.
Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, song nguyên nhân chủ quan vẫn là cơ
bản. Đó là nhận thức, tư duy về bảo vệ Tổ quốc còn chịu sự dàng buộc của ý thức
hệ và tư duy cũ trước đây (tư duy từ chiến tranh): dập khuôn, máy móc, chậm đổi
mới, ngại đổi mới, an phận, trung bình chủ nghĩa... Trong quá trình lãnh đạo
công cuộc đổi mới, có lúc, có nơi, không ít cán bộ, đảng viên, cơ quan, đơn vị
nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nói chung, về nhiệm vụ của quốc phòng, an
ninh nói riêng chưa có tư duy đột phá, đặc biệt là tư duy mới về nắm bắt tình
hình, đánh giá địch, ta, nhất là các loại tội phạm, những người có quan điểm
đối lập với Đảng, Nhà nước, để từ đó đề xuất chủ trương, biện pháp tháo gỡ khó
khăn, giải quyết tình huống. Công tác tham mưu chất lượng còn thấp, khả năng dự
báo, nhất là dự báo chiến lược còn yếu. Đây là những điểm “nghẽn” cần phải tiếp
tục nghiên cứu, tìm biện pháp tối ưu để khắc phục hạn chế, tồn tại.
Trong những năm tới, nhiều vấn đề toàn cầu nổi
lên như phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, hoạt động của chủ nghĩa khủng bố,
tội phạm quốc tế và các nhóm tôn giáo cực đoan, an ninh mạng, thiên tai, môi
trường, dịch bệnh, di dân bất hợp pháp, tranh chấp biển đảo... đã và đang buộc
tất cả các quốc gia dân tộc phải ngồi cùng nhau, bàn biện pháp cụ thể để đẩy
mạnh hợp tác, phối hợp giải quyết, không để tình hình phức tạp thêm.
Trong bối
cảnh tình hình hiện nay, khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển
năng động, sáng tạo nhưng vẫn đang tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định. Trong
khu vực này, sự cạnh tranh quyết liệt của Mỹ và Trung Quốc xung quanh việc đóng
vai trò chi phối, thống trị châu Á - Thái Bình Dương sẽ có tác động, ảnh hưởng
rất lớn đến các nước ASEAN, nhất là các nước đang phát triển, trong đó có Việt
Nam.
Khu vực Đông Nam Á tiếp tục phát triển, liên
kết chặt chẽ và có vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực, song những biến
động phức tạp ở Biển Đông, nhất là việc Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn
khoan trái phép HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt
Nam, đảo chính quân sự ở Thái Lan, tình hình chính trị ở Lào và Campuchia thời
gian gần đây có nhiều biến động đang ảnh hưởng trực tiếp ở quốc phòng, an ninh
của nước ta hiện nay và những năm tới đây. Thêm vào đó, âm mưu độc chiếm Biển
Đông của Trung Quốc, chiến lược “diễn biến hòa bình” của Mỹ và các thế lực thù
địch ở Việt Nam, gây “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta là không
thể coi thường. Những tác động của các yếu tố bên ngoài mà hệ quả tất yếu của
nó sẽ dẫn đến những biến đổi bên trong như làm tăng nguy cơ tự diễn biến, tự
chuyển hóa, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, mất ổn định chính trị ở các địa bàn
Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ có thể tái diễn, các ổ nhóm tội phạm sẽ lợi
dụng chống đối Đảng, Nhà nước ta, nhất là vào dịp đại hội Đảng các cấp và Đại
hội XII của Đảng, chúng ta phải hết sức đề phòng.
Một
trong những nhiệm vụ cấp bách cần phải tổ chức thực hiện là đẩy mạnh nghiên
cứu, làm rõ và hoàn thiện cơ cấu tổ chức, cơ cấu lãnh đạo của Đảng đối với quốc
phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, nhất là sự lãnh đạo của Đảng
với quốc phòng, an ninh trong các thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và
kinh tế tư nhân. Mở rộng quyền hạn của Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an
Trung ương để đủ sức lãnh đạo nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới.
Đồng thời, tổ chức hội đồng quốc phòng, an ninh từ trung ương đến các địa
phương để thống nhất lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và điều hành công tác quốc
phòng, an ninh ở các cấp và toàn xã hội; nghiên cứu, hoàn thiện cơ cấu tổ chức
và cơ cấu hoạt động của hội động quốc phòng, an ninh Trung ương, đặc biệt là cụ
thể hóa vai trò thống lĩnh các lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước vừa được
Hiến pháp năm 2013 thông qua.
Để thực hiện tốt các yêu cầu nêu trên, phải
đồng thời đẩy mạnh đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch, coi
nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa
bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thực hiện “phi chính trị hóa”
lực lượng vũ trang. Nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa
kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; thể chế hóa các mối quan hệ này
thành các văn bản quy phạm pháp luật, trong các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, các vùng miền, ngành nghề, các chương trình, dự án phát triển kinh tế -
xã hội. Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân;
xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng, củng cố thế trận an
ninh nhân dân, trọng tâm là xây dựng thế trận lòng dân, nâng cao khả năng dự
trữ và cơ sở vật chất cho quốc phòng, an ninh; phát triển công nhiệp quốc
phòng, an ninh, trang bị ngày càng tốt hơn vũ khí, trang bị quân sự cho các lực
lượng vũ trang.
Coi
trọng xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh, tập trung vào xây dựng các công
trình phòng thủ biển đảo và biên giới; xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh
(thành phố) vững chắc gắn với nâng cao chất lượng huấn luyện các lực lượng quốc
phòng, an ninh.
Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh về quốc phòng,
an ninh; lấy xây dựng tốt để đấu tranh có hiệu quả. Trong mọi điều kiện hoàn
cảnh, luôn vững vàng, kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp
về mọi mặt đối với quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở kiện toàn bộ
máy tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ quốc phòng, an ninh có đủ tâm, tầm và trí
tuệ, luôn đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ được giao, góp phần giữ vững sự ổn định
chính trị, trật tự, an toàn xã hội, giữ vững môi trường hòa bình để nhân dân an
tâm đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động, các
doanh nhân trong và ngoài nước an tâm đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tạo
mọi điều kiện thuận lợi để nước ta thực hiện thắng lợi mục tiêu đặt ra./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét