Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014

CẦN KHẮC PHỤC QUAN NIỆM SAI VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA TÍNH GIAI CẤP, TÍNH NHÂN DÂN VÀ TÍNH DÂN TỘC CỦA QUÂN ĐỘI TA



Giai cấp, nhân dân, quân đội và dân tộc là những phạm trù có mối quan hệ mật thiết với nhau. Song, không ngang bằng nhau mà mỗi yếu tố có vị trí, vai trò lịch sử của nó. Giai cấp, nhân dân, quân đội và dân tộc không thể thay thế lẫn nhau mặc dù giữa chúng có một số nội dung tương đồng, có quan hệ tương tác lẫn nhau, quy định, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau. Sẽ là sai lầm nếu xem xét, tách rời mối quan hệ giai cấp, nhân dân, quân đội và dân tộc hoặc đem quy mối quan hệ này vào mối quan hệ kia, chẳng hạn coi quan hệ dân tộc cũng là quan hệ giai cấp hay quan hệ giai cấp cũng là quan hệ nhân dân và quân đội.
Gia cấp, nhân dân, quân đội và dân tộc sinh ra và mất đi không đồng thời. Trong lịch sử nhân loại, nhân dân, giai cấp, quân đội có trước dân tộc hàng ngàn năm. Khi giai cấp, quân đội mất đi, dân tộc và nhân dân vẫn còn tồn tại lâu dài. Chúng ta sẽ không thể hiểu đầy đủ, sâu sắc tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc của quân đội ta nếu không nhận rõ vai trò của các nhân tố kinh tế - xã hội, đặc biệt là của nhân tố giai cấp, đấu tranh giai cấp. Mối quan hệ giữa giai cấp với nhân dân và dân tộc với tư cách là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất trong xã hội có giai cấp đối kháng là nhân tố xét đến cùng có vai trò quyết định đối với sự hình thành dân tộc, đối với xu hướng phát triển của dân tộc, quy định bản chất xã hội của dân tộc, quy định tính chất của mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, nhân dân và quân đội.
Bản chất xã hội của dân tộc, giai cấp, nhân dân và quân đội được quy định bởi phương thức sản xuất và vai trò thống trị của nó trong đời sống xã hội;  bởi lẽ, quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân dân và quân đội do phương thức sản xuất sản sinh ra. Sự thống trị của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa và của giai cấp công nhân đối với dân tộc, nhân dân và quân đội nói lên tính chất xã hội xã hội chủ nghĩa của dân tộc và quân đội. Tính chất này thể hiện ở vai trò thống trị dân tộc, vai trò đại diện cho lợi ích dân tộc của giai cấp công nhân đối với quân đội do nhà nước của giai cấp công nhân sáng lập, nuôi dỡng và sử dụng quân đội. Điều này đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam khẳng định: Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, giai cấp công nhân Việt Nam nắm quyền thống trị trong dân tộc và lãnh đạo quân đội. Do đó, giai cấp công nhân Việt Nam trở thành “giai cấp dân tộc”; đóng vai trò lãnh đạo dân tộc và quân đội ta.
Sự thay đổi quan hệ kinh tế - xã hội dưới mọi hình thức, về bản chất, là thay đổi phương thức sản xuất xã hội, làm cho phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa trở thành phương thức sản xuất thống trị và chính nó, đã làm cho nhân dân ta, dân tộc ta từng bước chuyển hóa thành hình thức cộng đồng người không có giai cấp đối kháng, thành dân tộc xã hội chủ nghĩa. Theo đó, quân đội ta mang bản chất của giai cấp công nhân, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, là cơ sở quyết định bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc. Điều đó chứng tỏ rằng, áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản, sâu xa của áp bức nhân dân, áp bức dân tộc; đồng thời áp bức giai cấp sản sinh ra quân đội - công cụ của nhà nước thống trị, theo đó, cũng kết thúc vai trò lịch sử của nó. Đây là cơ sở để chấm dứt sự thống trị của giai cấp đối với dân tộc, đối với nhân dân với tư cách là giai cấp bóc lột dân tộc, bóc lột nhân dân, sản sinh ra quân đội của giai cấp bóc lột.
Nhân dân và quân đội ta sống trong lòng dân tộc, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đã trở thành quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nói cách khác, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta vốn là dân tộc thuộc địa nửa phong kiến đã giành được độc lập về chính trị; chấm dứt vai trò thống trị của thực dân, đế quốc và tay sai theo kiểu cũ và mới.  Đó là cơ sở để nhân dân ta, dân tộc ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu, bị lệ thuộc vào thực dân, đế quốc và phong kiến.
Rõ ràng, sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với thành quả của Cách mạng tháng Tám đã chấm dứt sự bất bình đẳng dân tộc và áp bức dân tộc; điều đó cũng có nghĩa là đưa địa vị của người dân từ thân phận nô lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân của đất nước, sản sinh ra quân đội của giai cấp vô sản, quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và nhờ nó, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu và đại thắng mùa Xuân 1975, thống nhất nước nhà; đưa đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó hoàn toàn đúng với quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin: Giai cấp vô sản chỉ có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội chỉ khi và khi nào xóa bỏ triệt để tệ nạn áp bức dân tộc, áp bức nhân dân cũng như quân đội của gia cấp bóc lột. Điều đó có nghĩa là phải xóa bỏ nguồn gốc sản sinh ra chế độ người bóc lột người, nô dịch người. Khẳng định điều này, V.I.Lênin chỉ rõ: Chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân, mới tạo tiền đề cần thiết để giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện cuộc cách mạng vô sản, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và giải phóng nhân loại.
Vì vậy, nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản nhất trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân; quyết định bản chất của quân đội. Lẽ đương nhiên, Quân đội nhân dân Việt Nam do giai cấp công nhân và nhân dân lao động nuôi dưỡng, rèn luyện, chiến đấu và trưởng thành không thể tách rời nhân tố giai cấp và nhân tố dân tộc, nhân tố nhân dân. Quan hệ máu thịt của các nhân tố ấy tạo nên sức mạnh vô địch, bách chiến bách thắng của quân đội ta. Thực tế chỉ ra rằng, ở nước ta, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng, liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp cách mạng, đã, đang và luôn là những vấn đề trọng yếu của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung, công cuộc đổi mới và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam nói riêng, không thể thành công nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nếu không xây dựng, củng cố vững chắc khối liên minh bền vững giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, đội ngũ tri thức; nếu không có quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Nhấn mạnh vai trò của nhân tố giai cấp trong mối quan hệ mật thiết với nhân tố nhân dân và nhân tố dân tộc của quân đội, Đảng ta không hề coi thường vai trò của nhân tố dân tộc và nhân tố nhân dân trong sự phát triển của cách mạng cũng như sự ra đời, chiến đấu, trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta. Vì vậy, Đảng ta luôn coi vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề hệ trọng của cách mạng Việt Nam, một nhân tố không thể thiếu trong xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Song, để nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề giai cấp, dân tộc, nhân dân trong xây dựng quân đội ta hiện nay, nhất thiết phải đứng vững trên lập trường, quan điểm của giai cấp tiến bộ, giai cấp cách mạng nhất, tức là lập trường, quan điểm và lợi ích của giai cấp công nhân. Không thể có một quân đội tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân nếu xem xét nó tách rời hoặc đối lập nhân tố giai cấp với nhân tố dân tộc và nhân tố nhân dân trong tổ chức, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Trước đây, cũng như hiện nay, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, về bản chất, mang tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc. Bởi vậy, nó được đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam - Người đại diện trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; đại diện chính đáng cho lợi ích của toàn thể dân tộc Việt Nam. Cho nên, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của Cách mạng Việt Nam, của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân Việt Nam thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công. Quan điểm nhất quán của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, Đảng của giai cấp công nhân trong bất luận hoàn cảnh nào, không được coi nhẹ việc giáo dục bản chất giai cấp công nhân cho lớp công nhân trẻ tuổi, cho quần chúng nhân dân lao động. Đồng thời, giai cấp công nhân không được quên rằng, cuộc đấu tranh giải phóng bản thân họ, tự nó mang tính chất dân tộc sâu sắc, gắn bó chặt chẽ với nhân dân và quân đội cách mạng.
Bởi lẽ, dân tộc là địa bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp do giai cấp công nhân tiến hành. Ở đó, giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức để xây dựng nên quân đội cách mạng -  quân đội kiểu mới. Vì vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân Việt Nam, trước hết và quan trọng nhất, đã giành được chính quyền về tay mình, tổ chức ra Nhà nước, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam; nhờ đó đã vươn lên thành giai cấp dân tộc, tự mình trở thành dân tộc.
Quân đội ta là quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam; cho nên sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân dân của quân đội ta được quy định bởi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì một lý do nào đó, nhân tố này không được thực hiện triệt để thì quân đội sẽ mất đi sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc. Quân đội đã mắc mưu “phi chính trị hóa” của các thế lực thù địch. Chúng ta đều biết rằng, áp bức giai cấp là nguyên nhân sâu xa của áp bức dân tộc. Song, nó không phải một chiều mà ngược lại, áp bức dân tộc luôn tác động trở lại với áp bức giai cấp một cách mạnh mẽ. Nó nuôi dưỡng áp bức giai cấp và làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp. Điều đó đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh: thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và áp bức dân tộc ta, đã khiến cho dân tộc ta không thể có được tự do, độc lập; nước mất, nhà tan; nhân dân lao động lầm than, khổ cực.
Chính vì vậy, mối quan hệ giữa đấu tranh giai cấp của nhân dân ta với đấu tranh để giải phóng dân tộc ở nước ta không phải chỉ có một chiều là đấu tranh giai cấp tác động vào đấu tranh dân tộc mà còn có chiều ngược lại là, đấu tranh dân tộc, giải phóng dân tộc tác động mạnh mẽ vào cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam. Bởi lẽ, ngày nào dân tộc ta chưa có tự do, độc lập, thống nhất thì ngày ấy, giai cấp công nhân - đại biểu cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc cũng không thể trở thành giai cấp dân tộc.
Điều đó luôn đặt ra yêu cầu cấp thiết là giai cấp công nhân phải đi đầu trong cách mạng giải phóng dân tộc, phải thực hiện trước tiên nhiệm vụ khôi phục và giành lại độc lập, tự do, thống nhất dân tộc. Thực hiện sứ mệnh ấy, nhất thiết giai cấp công nhân Việt Nam phải sáng lập, tổ chức, giáo dục và rèn luyện quân đội cách mạng để thực hiện nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cho nên, quân đội ta có vai trò đặc biệt quan trọng trong đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đồng thời, là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh cách mạng, trong giải quyết mối quan hệ giữa đấu tranh giải phóng dân tộc và đấu tranh giải phóng giai cấp trước đây và hiện nay. Thực tiễn 70 năm xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ tận tình, có hiệu quả của nhân dân ta đã nói lên điều đó.
Nhấn mạnh điều này, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ rằng, nhiệm vụ của giai cấp công nhân, trước hết là vì lợi ích căn bản của chính mình nên phải ra sức ủng hộ cách mạng giải phóng dân tộc. Đó là phương cách duy nhất để đưa cách mạng tiến lên; nhờ đó mà Đảng Cộng sản chứng tỏ mình là đại biểu trung thành, chân chính của dân tộc, của nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng và Bác Hồ sáng lập và rèn luyện, chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của mình chỉ khi thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng là đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, đem lại tự do, độc lập cho nhân dân. Điều đó có nghĩa là quân đội ta thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, khi giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích của nhân dân; đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc.
Một trong những bài học lớn nhất của cách mạng Việt Nam là bài học kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc giữa giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội, giữa xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và xây dựng quân đội. Trong mọi thời kì của cách mạng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Đồng thời, quân đội ta đã và đang giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc và quốc tế, lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế với lợi ích của nhân dân; đảm bảo sự thống nhất về lợi ích giữa giai cấp công nhân với lợi ích của giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trên cơ sở thực hiện tốt đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Từ chiều sâu của sự thống nhất tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc, quân đội ta đồng thời thực hiện tốt vai trò, chức năng đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, gắn chặt vấn đề dân tộc với các vấn đề quốc tế; kiên quyết chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa sôvanh ích kỷ dân tộc, chủ nghĩa bá quyền áp đặt sự thống trị đối với dân tộc ta.
Mấu chốt của sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc là sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa ba nhân tố ấy. Trong đó, theo tư tưởng của Bác Hồ, nhân tố nhân dân trong xây dựng quân đội cách mạng là một vấn đề hệ trọng, thể hiện rất rõ quan điểm “lấy dân chúng (công nông) làm gốc” của Người. Đối với nước ta, khi đất nước còn bị giặc ngoại bang xâm lược thì nhiệm vụ chính trị hàng đầu của toàn dân là đấu tranh giành cho được tự do, độc lập. Con đường duy nhất để thực hiện mục tiêu ấy là dùng bạo lực cách mạng, là con đường cách mạng vô sản.
Tuy nhiên, theo Bác Hồ, đối với nước ta, một nước thuộc địa nửa phong kiến thì vấn đề trước tiên là thực hiện “dân tộc cách mạng”. Sự nghiệp vĩ đại này chỉ có thể thành công khi “công nông là gốc của cách mạng”; đánh đuổi quân xâm lược là công việc của mọi người, mọi nhà. Muốn vậy, theo Bác Hồ, cần phải có đảng cách mệnh dẫn đường, chỉ lối cho quốc dân đi; sau đó là tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân. Tư tưởng này của Bác đã đặt nền móng cho đường lối chiến tranh nhân dân của cách mạng Việt Nam, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, xây dựng quân đội ta, Đảng và Bác Hồ luôn coi trọng vấn đề gắn chặt việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân với phong trào cách mạng của nhân dân.
Người khẳng định, ở nước ta, nếu quân đội nhân dân không gắn bó mật thiết với phong trào cách mạng của toàn dân thì sẽ không có lực lượng vũ trang hùng mạnh. Ngược lại, không có lực lượng vũ trang hùng mạnh hậu thuẫn thì phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân sẽ không thể phát triển, không thể giành thắng lợi. Tư tưởng này của Bác thể hiện rõ trong việc tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Nhờ đó, chúng ta không những đã huy động được sức mạnh của toàn dân mà còn xây dựng quân đội cách mạng phù hợp với tình hình cụ thể của nước ta, do không có điều kiện xây dựng một đội quân nhà nghề, thoát ly dân chúng, mà gắn chặt nhiệm vụ chiến đấu với nhiệm vụ công tác và sản xuất.
Trong quá trình xây dựng quân đội cách mạng, chúng ta đã quán triệt sâu sắc đường lối nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân; đặc biệt là chăm lo cái gốc của quân đội, tức là nhân dân. Bởi lẽ, quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Nhân dân có giác ngộ chính trị, có khỏe mạnh và biết đánh giặc thì mới làm cho quân đội ta hùng cường.
Cho nên, Đảng, Nhà nước, Quân đội phải chăm lo bồi dưỡng sức dân, giúp nhân dân vượt qua mọi khó khăn, ổn định cuộc sống, đẩy mạnh sản xuất; tham gia kháng chiến, kiến quốc. Nếu quân đội mà xa rời nhân dân, không biết dựa vào nhân dân, không được nhân dân ủng hộ, giúp sức, thì dù quân đội có nhiều vũ khí tối tân hiện đại, song không tránh khỏi thất bại. Điều đó có nghĩa là, khi đánh giặc cũng như khi xây dựng, huấn luyện, quân đội phải gần dân, sống trong lòng nhân dân, dù quân đội có chính quy, hiện đại đến mấy thì vẫn phải bám dân, giữ mối quan hệ chặt chẽ với nhân dân. Tính nhân dân của quân đội ta thể hiện rõ ngay từ ngày Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân mới ra đời và nó được bồi đắp, nuôi dưỡng trong suốt chặng đường 70 năm qua. Tính nhân dân trong xây dựng quân đội ta còn thể hiện ở việc hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ và bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng mà nhân dân ta bằng xương máu của mình đã giành được.
Tóm lại, chỉ có dựa vào nhân dân, quân đội ta mới có thể xây dựng, phát triển, chiến đấu và chiến thắng. Đó là điểm khác nhau căn bản giữa Quân đội nhân dân Việt Nam với các đội quân nhà nghề của giai cấp, chế độ bóc lột, thống trị, áp bức nhân dân. Lịch sử 70 năm xây dựng, phát triển, chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta đã xác nhận sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội và quan hệ chặt chẽ giữa quân đội với nhân dân là những nhân tố đảm bảo cho quân đội ta trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Đó là những điều cần phổ biến, tuyên truyền, giáo dục cho các thế hệ cán bộ, sĩ quan trẻ, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội ta; giúp họ nhận thức sâu sắc sự thống nhất biện chứng giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc của quân đội anh hùng. Đây là vấn đề có tính quy luật của xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong thời kỳ mới./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét