Giai cấp, nhân dân, quân
đội và dân tộc là những phạm trù có mối quan hệ mật thiết với nhau. Song, không
ngang bằng nhau mà mỗi yếu tố có vị trí, vai trò lịch sử của nó. Giai cấp, nhân
dân, quân đội và dân tộc không thể thay thế lẫn nhau mặc dù giữa chúng có một
số nội dung tương đồng, có quan hệ tương tác lẫn nhau, quy định, ràng buộc và
phụ thuộc lẫn nhau. Sẽ là sai lầm nếu xem xét, tách rời mối quan hệ giai cấp,
nhân dân, quân đội và dân tộc hoặc đem quy mối quan hệ này vào mối quan hệ kia,
chẳng hạn coi quan hệ dân tộc cũng là quan hệ giai cấp hay quan hệ giai cấp
cũng là quan hệ nhân dân và quân đội.
Gia cấp, nhân dân, quân
đội và dân tộc sinh ra và mất đi không đồng thời. Trong lịch sử nhân loại, nhân
dân, giai cấp, quân đội có trước dân tộc hàng ngàn năm. Khi giai cấp, quân đội
mất đi, dân tộc và nhân dân vẫn còn tồn tại lâu dài. Chúng ta sẽ không thể hiểu
đầy đủ, sâu sắc tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc của quân đội ta
nếu không nhận rõ vai trò của các nhân tố kinh tế - xã hội, đặc biệt là của
nhân tố giai cấp, đấu tranh giai cấp. Mối quan hệ giữa giai cấp với nhân dân và
dân tộc với tư cách là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất trong xã hội
có giai cấp đối kháng là nhân tố xét đến cùng có vai trò quyết định đối với sự
hình thành dân tộc, đối với xu hướng phát triển của dân tộc, quy định bản chất
xã hội của dân tộc, quy định tính chất của mối quan hệ giữa dân tộc với giai
cấp, nhân dân và quân đội.
Bản chất xã hội của dân
tộc, giai cấp, nhân dân và quân đội được quy định bởi phương thức sản xuất và
vai trò thống trị của nó trong đời sống xã hội;
bởi lẽ, quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân dân và quân đội do phương thức
sản xuất sản sinh ra. Sự thống trị của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa và
của giai cấp công nhân đối với dân tộc, nhân dân và quân đội nói lên tính chất
xã hội xã hội chủ nghĩa của dân tộc và quân đội. Tính chất này thể hiện ở vai
trò thống trị dân tộc, vai trò đại diện cho lợi ích dân tộc của giai cấp công
nhân đối với quân đội do nhà nước của giai cấp công nhân sáng lập, nuôi dỡng và
sử dụng quân đội. Điều này đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam khẳng định: Sau thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám, giai cấp công nhân Việt Nam nắm quyền thống trị trong dân
tộc và lãnh đạo quân đội. Do đó, giai cấp công nhân Việt Nam trở thành
“giai cấp dân tộc”; đóng vai trò lãnh đạo dân tộc và quân đội ta.
Sự thay đổi quan hệ kinh
tế - xã hội dưới mọi hình thức, về bản chất, là thay đổi phương thức sản xuất
xã hội, làm cho phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa trở thành phương thức sản
xuất thống trị và chính nó, đã làm cho nhân dân ta, dân tộc ta từng bước chuyển
hóa thành hình thức cộng đồng người không có giai cấp đối kháng, thành dân tộc
xã hội chủ nghĩa. Theo đó, quân đội ta mang bản chất của giai cấp công nhân,
đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt
Nam, là cơ sở quyết định bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân
tộc. Điều đó chứng tỏ rằng, áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản, sâu xa của
áp bức nhân dân, áp bức dân tộc; đồng thời áp bức giai cấp sản sinh ra quân đội
- công cụ của nhà nước thống trị, theo đó, cũng kết thúc vai trò lịch sử của
nó. Đây là cơ sở để chấm dứt sự thống trị của giai cấp đối với dân tộc, đối với
nhân dân với tư cách là giai cấp bóc lột dân tộc, bóc lột nhân dân, sản sinh ra
quân đội của giai cấp bóc lột.
Nhân dân và quân đội ta
sống trong lòng dân tộc, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đã trở
thành quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nói cách khác, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
dân tộc ta vốn là dân tộc thuộc địa nửa phong kiến đã giành được độc lập về
chính trị; chấm dứt vai trò thống trị của thực dân, đế quốc và tay sai theo
kiểu cũ và mới. Đó là cơ sở để nhân dân
ta, dân tộc ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu, bị lệ thuộc vào thực
dân, đế quốc và phong kiến.
Rõ ràng, sự ra đời của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
với thành quả của Cách mạng tháng Tám đã chấm dứt sự bất bình đẳng dân tộc và
áp bức dân tộc; điều đó cũng có nghĩa là đưa địa vị của người dân từ thân phận
nô lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân của đất nước, sản sinh ra quân đội của giai
cấp vô sản, quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và nhờ nó, quân
và dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, trấn động địa
cầu và đại thắng mùa Xuân 1975, thống nhất nước nhà; đưa đất nước bước vào thời
kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó hoàn toàn đúng với quan điểm
của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin: Giai cấp vô sản chỉ có thể xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội chỉ khi và khi nào xóa bỏ triệt để tệ nạn áp bức
dân tộc, áp bức nhân dân cũng như quân đội của gia cấp bóc lột. Điều đó có
nghĩa là phải xóa bỏ nguồn gốc sản sinh ra chế độ người bóc lột người, nô dịch
người. Khẳng định điều này, V.I.Lênin chỉ rõ: Chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân, mới
tạo tiền đề cần thiết để giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện cuộc
cách mạng vô sản, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người và giải phóng nhân loại.
Vì vậy, nhân tố giai cấp
là nhân tố cơ bản nhất trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng nhân dân; quyết định bản chất của quân đội. Lẽ đương nhiên, Quân đội nhân
dân Việt Nam
do giai cấp công nhân và nhân dân lao động nuôi dưỡng, rèn luyện, chiến đấu và
trưởng thành không thể tách rời nhân tố giai cấp và nhân tố dân tộc, nhân tố
nhân dân. Quan hệ máu thịt của các nhân tố ấy tạo nên sức mạnh vô địch, bách
chiến bách thắng của quân đội ta. Thực tế chỉ ra rằng, ở nước ta, giai cấp công
nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng, liên minh với giai cấp nông dân
và đội ngũ tri thức là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp cách mạng, đã, đang và
luôn là những vấn đề trọng yếu của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, sự nghiệp cách
mạng Việt Nam nói chung, công cuộc đổi mới và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
nói riêng, không thể thành công nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nếu không xây dựng, củng cố vững chắc khối liên minh bền vững giữa giai
cấp công nhân và giai cấp nông dân, đội ngũ tri thức; nếu không có quân đội của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Nhấn mạnh vai trò của
nhân tố giai cấp trong mối quan hệ mật thiết với nhân tố nhân dân và nhân tố
dân tộc của quân đội, Đảng ta không hề coi thường vai trò của nhân tố dân tộc
và nhân tố nhân dân trong sự phát triển của cách mạng cũng như sự ra đời, chiến
đấu, trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta. Vì vậy, Đảng ta luôn coi vấn
đề dân tộc là một trong những vấn đề hệ trọng của cách mạng Việt Nam, một nhân
tố không thể thiếu trong xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại. Song, để nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề giai cấp,
dân tộc, nhân dân trong xây dựng quân đội ta hiện nay, nhất thiết phải đứng
vững trên lập trường, quan điểm của giai cấp tiến bộ, giai cấp cách mạng nhất,
tức là lập trường, quan điểm và lợi ích của giai cấp công nhân. Không thể có
một quân đội tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân
dân nếu xem xét nó tách rời hoặc đối lập nhân tố giai cấp với nhân tố dân tộc
và nhân tố nhân dân trong tổ chức, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Trước đây, cũng như hiện
nay, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, về bản chất, mang tính dân tộc và
tính nhân dân sâu sắc. Bởi vậy, nó được đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam - Người đại diện trung thành cho lợi
ích của giai cấp công nhân, của giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; đại diện
chính đáng cho lợi ích của toàn thể dân tộc Việt Nam. Cho nên, sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân
tố quyết định mọi thắng lợi của Cách mạng Việt Nam, của sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân Việt Nam thoát khỏi ách áp bức, bóc
lột, bất công. Quan điểm nhất quán của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ, Đảng của giai cấp công nhân trong bất luận hoàn cảnh nào, không
được coi nhẹ việc giáo dục bản chất giai cấp công nhân cho lớp công nhân trẻ
tuổi, cho quần chúng nhân dân lao động. Đồng thời, giai cấp công nhân không
được quên rằng, cuộc đấu tranh giải phóng bản thân họ, tự nó mang tính chất dân
tộc sâu sắc, gắn bó chặt chẽ với nhân dân và quân đội cách mạng.
Bởi lẽ, dân tộc là địa
bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp do giai cấp công nhân tiến hành. Ở
đó, giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức để
xây dựng nên quân đội cách mạng - quân
đội kiểu mới. Vì vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, giai cấp công nhân Việt Nam, trước hết và quan trọng nhất, đã giành được
chính quyền về tay mình, tổ chức ra Nhà nước, xây dựng Quân đội nhân dân Việt
Nam; nhờ đó đã vươn lên thành giai cấp dân tộc, tự mình trở thành dân tộc.
Quân đội ta là quân đội
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam; cho nên sự thống nhất giữa tính
giai cấp, tính dân tộc và tính nhân dân của quân đội ta được quy định bởi sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì một lý do nào đó, nhân tố này không
được thực hiện triệt để thì quân đội sẽ mất đi sự thống nhất giữa tính giai
cấp, tính nhân dân và tính dân tộc. Quân đội đã mắc mưu “phi chính trị hóa” của
các thế lực thù địch. Chúng ta đều biết rằng, áp bức giai cấp là nguyên nhân
sâu xa của áp bức dân tộc. Song, nó không phải một chiều mà ngược lại, áp bức
dân tộc luôn tác động trở lại với áp bức giai cấp một cách mạnh mẽ. Nó nuôi dưỡng
áp bức giai cấp và làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp. Điều đó đã được thực tiễn
cách mạng Việt Nam
chứng minh: thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và áp bức dân tộc ta, đã khiến
cho dân tộc ta không thể có được tự do, độc lập; nước mất, nhà tan; nhân dân
lao động lầm than, khổ cực.
Chính vì vậy, mối quan hệ
giữa đấu tranh giai cấp của nhân dân ta với đấu tranh để giải phóng dân tộc ở
nước ta không phải chỉ có một chiều là đấu tranh giai cấp tác động vào đấu
tranh dân tộc mà còn có chiều ngược lại là, đấu tranh dân tộc, giải phóng dân
tộc tác động mạnh mẽ vào cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam. Bởi lẽ, ngày nào
dân tộc ta chưa có tự do, độc lập, thống nhất thì ngày ấy, giai cấp công nhân -
đại biểu cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, đại diện cho lợi ích của toàn
dân tộc cũng không thể trở thành giai cấp dân tộc.
Điều đó luôn đặt ra yêu
cầu cấp thiết là giai cấp công nhân phải đi đầu trong cách mạng giải phóng dân
tộc, phải thực hiện trước tiên nhiệm vụ khôi phục và giành lại độc lập, tự do,
thống nhất dân tộc. Thực hiện sứ mệnh ấy, nhất thiết giai cấp công nhân Việt
Nam phải sáng lập, tổ chức, giáo dục và rèn luyện quân đội cách mạng để thực
hiện nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do, hạnh phúc
cho nhân dân. Cho nên, quân đội ta có vai trò đặc biệt quan trọng trong đấu
tranh giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Đồng thời, là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh cách mạng, trong giải quyết
mối quan hệ giữa đấu tranh giải phóng dân tộc và đấu tranh giải phóng giai cấp
trước đây và hiện nay. Thực tiễn 70 năm xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và
chiến thắng của quân đội ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự cưu mang, đùm bọc,
giúp đỡ tận tình, có hiệu quả của nhân dân ta đã nói lên điều đó.
Nhấn mạnh điều này, các
nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ rằng, nhiệm vụ của giai cấp công
nhân, trước hết là vì lợi ích căn bản của chính mình nên phải ra sức ủng hộ
cách mạng giải phóng dân tộc. Đó là phương cách duy nhất để đưa cách mạng tiến
lên; nhờ đó mà Đảng Cộng sản chứng tỏ mình là đại biểu trung thành, chân chính
của dân tộc, của nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng và Bác Hồ sáng lập và
rèn luyện, chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của mình chỉ khi thực hiện
thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng là đấu tranh giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, đem lại tự do, độc lập cho nhân dân. Điều đó có nghĩa là quân
đội ta thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước và nhân dân
giao phó, khi giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và
lợi ích của nhân dân; đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc.
Một trong những bài học
lớn nhất của cách mạng Việt Nam là bài học kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa
đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc giữa giải phóng dân tộc và giải phóng
xã hội, giữa xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và xây dựng quân đội. Trong mọi
thời kì của cách mạng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình. Đồng thời, quân đội ta đã và đang giải quyết đúng đắn mối
quan hệ dân tộc và quốc tế, lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế với lợi ích của
nhân dân; đảm bảo sự thống nhất về lợi ích giữa giai cấp công nhân với lợi ích
của giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trên cơ sở thực hiện tốt đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Từ chiều sâu của sự thống nhất
tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc, quân đội ta đồng thời thực hiện
tốt vai trò, chức năng đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, gắn chặt vấn đề dân
tộc với các vấn đề quốc tế; kiên quyết chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa
sôvanh ích kỷ dân tộc, chủ nghĩa bá quyền áp đặt sự thống trị đối với dân tộc
ta.
Mấu chốt của sự thống
nhất giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc là sự kết hợp hài hòa,
nhuần nhuyễn giữa ba nhân tố ấy. Trong đó, theo tư tưởng của Bác Hồ, nhân tố
nhân dân trong xây dựng quân đội cách mạng là một vấn đề hệ trọng, thể hiện rất
rõ quan điểm “lấy dân chúng (công nông) làm gốc” của Người. Đối với nước ta,
khi đất nước còn bị giặc ngoại bang xâm lược thì nhiệm vụ chính trị hàng đầu
của toàn dân là đấu tranh giành cho được tự do, độc lập. Con đường duy nhất để
thực hiện mục tiêu ấy là dùng bạo lực cách mạng, là con đường cách mạng vô sản.
Tuy nhiên, theo Bác Hồ,
đối với nước ta, một nước thuộc địa nửa phong kiến thì vấn đề trước tiên là
thực hiện “dân tộc cách mạng”. Sự nghiệp vĩ đại này chỉ có thể thành công khi
“công nông là gốc của cách mạng”; đánh đuổi quân xâm lược là công việc của mọi
người, mọi nhà. Muốn vậy, theo Bác Hồ, cần phải có đảng cách mệnh dẫn đường,
chỉ lối cho quốc dân đi; sau đó là tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân. Tư
tưởng này của Bác đã đặt nền móng cho đường lối chiến tranh nhân dân của cách
mạng Việt Nam,
lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam,
xây dựng quân đội ta, Đảng và Bác Hồ luôn coi trọng vấn đề gắn chặt việc xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân với phong trào cách mạng của nhân dân.
Người khẳng định, ở nước
ta, nếu quân đội nhân dân không gắn bó mật thiết với phong trào cách mạng của
toàn dân thì sẽ không có lực lượng vũ trang hùng mạnh. Ngược lại, không có lực
lượng vũ trang hùng mạnh hậu thuẫn thì phong trào đấu tranh của quần chúng nhân
dân sẽ không thể phát triển, không thể giành thắng lợi. Tư tưởng này của Bác
thể hiện rõ trong việc tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Nhờ đó, chúng ta không những đã
huy động được sức mạnh của toàn dân mà còn xây dựng quân đội cách mạng phù hợp
với tình hình cụ thể của nước ta, do không có điều kiện xây dựng một đội quân
nhà nghề, thoát ly dân chúng, mà gắn chặt nhiệm vụ chiến đấu với nhiệm vụ công
tác và sản xuất.
Trong quá trình xây dựng
quân đội cách mạng, chúng ta đã quán triệt sâu sắc đường lối nghệ thuật quân sự
của chiến tranh nhân dân; đặc biệt là chăm lo cái gốc của quân đội, tức là nhân
dân. Bởi lẽ, quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Nhân dân
có giác ngộ chính trị, có khỏe mạnh và biết đánh giặc thì mới làm cho quân đội
ta hùng cường.
Cho nên, Đảng, Nhà nước,
Quân đội phải chăm lo bồi dưỡng sức dân, giúp nhân dân vượt qua mọi khó khăn,
ổn định cuộc sống, đẩy mạnh sản xuất; tham gia kháng chiến, kiến quốc. Nếu quân
đội mà xa rời nhân dân, không biết dựa vào nhân dân, không được nhân dân ủng
hộ, giúp sức, thì dù quân đội có nhiều vũ khí tối tân hiện đại, song không
tránh khỏi thất bại. Điều đó có nghĩa là, khi đánh giặc cũng như khi xây dựng,
huấn luyện, quân đội phải gần dân, sống trong lòng nhân dân, dù quân đội có
chính quy, hiện đại đến mấy thì vẫn phải bám dân, giữ mối quan hệ chặt chẽ với
nhân dân. Tính nhân dân của quân đội ta thể hiện rõ ngay từ ngày Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân mới ra đời và nó được bồi đắp, nuôi dưỡng trong
suốt chặng đường 70 năm qua. Tính nhân dân trong xây dựng quân đội ta còn thể
hiện ở việc hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ và bảo vệ vững chắc thành quả cách
mạng mà nhân dân ta bằng xương máu của mình đã giành được.
Tóm lại, chỉ có dựa vào
nhân dân, quân đội ta mới có thể xây dựng, phát triển, chiến đấu và chiến
thắng. Đó là điểm khác nhau căn bản giữa Quân đội nhân dân Việt Nam với các đội
quân nhà nghề của giai cấp, chế độ bóc lột, thống trị, áp bức nhân dân. Lịch sử
70 năm xây dựng, phát triển, chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta đã xác
nhận sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội và
quan hệ chặt chẽ giữa quân đội với nhân dân là những nhân tố đảm bảo cho quân
đội ta trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Đó là những điều
cần phổ biến, tuyên truyền, giáo dục cho các thế hệ cán bộ, sĩ quan trẻ, hạ sĩ
quan, binh sĩ quân đội ta; giúp họ nhận thức sâu sắc sự thống nhất biện chứng
giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc của quân đội anh hùng. Đây là
vấn đề có tính quy luật của xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong thời kỳ mới./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét