1.Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, là nguồn cội sức mạnh của dân tộc, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
thực hiện chiến lược con người, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng, Nhà nước, bảo đảm cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đi đến thành
công, là “chìa khóa” mở con đường phát triển kinh tế tri thức, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Văn hóa không chỉ là nhân tố nội sinh thúc
đẩy con người Việt Nam phát triển, hoàn thiện nhân cách mà còn là mục tiêu,
động lực thúc đẩy việc tái cấu trúc lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng
trưởng, kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; giữ vững ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển bền vững đất nước; trở thành nền
tảng tinh thần của xã hội ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI khẳng định: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng
với kinh tế, chính trị, xã hội”. Vì vậy, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần
yêu nước, nhân văn, dân chủ và khoa học, tạo môi trường văn hóa lành mạnh để
phát triển toàn diện con người Việt Nam là xây móng, đắp nền vững chắc để phát
triển kinh tế, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng -
an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
2. Về nguyên tắc, chúng ta
đều nhận thức rõ, sản xuất vật chất, phát triển kinh tế là cơ sở nền tảng quyết
định sự tồn tại, phát triển lịch sử xã hội loại người. Song, trong lịch sử phát
triển của các nền văn minh, văn hóa nhân loại, bên cạnh vai trò quyết định của
sản xuất vật chất, của yếu tố kinh tế, suy đến cùng, đối với sự phát triển của
xã hội loài người thì các yếu tố chính trị, văn hóa, tinh thần ...có vai trò
tác động trở lại rất quan trọng, thậm chí vào những thời điểm lịch sử nhất
định, các yếu tố chính trị, văn hóa, tinh thần có tác dụng quyết định tình
hình, diễn biến thời cuộc với sức mạnh sáng tạo vô cùng to lớn của con người.
Lịch sử các nền văn minh, văn hóa nhân loại đã chỉ ra rằng, không phải cứ quốc
gia, dân tộc nào có nền kinh tế phát triển là có nền văn minh, văn hóa tương
ứng phát triển; không có văn hóa, nhân cách đạo đức, cá nhân dù có tài, song vô
dụng; mất văn hóa là mất tất cả.
Ở đây cần hiểu việc đặt văn hóa ngang hàng
với kinh tế, chính trị, xã hội không có nghĩa là làm cho kinh tế, chính trị, xã
hội và văn hóa “dàn hàng ngang cùng tiến” hay là “cào bằng” mà phải tùy theo
thời gian, vị trí, vai trò, tác dụng của từng nhân tố để xác định đúng và trúng
trọng tâm, trọng điểm đầu tư phát triển cho phù hợp, đảm bảo sự cân đối, hài
hòa, tính hiệu quả của đầu tư, phù hợp với điều kiện lịch sử cho phép. Điều
quan trọng là nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn vị trí, vai trò, giá trị và ý nghĩa
vô cùng to lớn của văn hóa đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, đối với việc
thực hiện chiến lược con người và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới để từ đó, việc hoạch định
đường lối, chiến lược, sách lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an
ninh, bảo vệ Tổ quốc phải hàm chứa nội dung xây dựng, phát triển văn hóa sao
cho đồng bộ, khả thi. Mỗi một bước tiến của sản xuất, kinh doanh, phát triển
kinh tế - xã hội phải đồng thời là một bước tiến của phát triển văn hóa, nghệ
thuật cách mạng. Có đổi mới tư duy lý luận, nhận thức đúng và giải quyết tốt
mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế, chính trị và văn hóa, chúng ta mới xây
dựng được con người mới - chủ thể xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ; thể hiện tính
ưu việt của chế độ xã hội ta trong việc chăm lo xây dựng con người có nhân
cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình,
trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo; là cơ sở để giải quyết hài hòa mối quan
hệ giữa phát triển kinh tế, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội và phát
triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
Vì
vậy, quan tâm chăm lo phát triển các yếu tố văn hóa và con người trong phát
triển kinh tế - xã hội là cơ sở chắc chắn nhất để giữ vững sự ổn định chính
trị, môi trường hòa bình, tính ưu việt, sự khoan dung, tinh thần nhân văn, dân
chủ và khoa học ở nước ta - cái nhân cốt tạo dựng, làm nên một nước Việt Nam
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá nhấn mạnh hoặc coi thường một yếu tố
nào đó, tất yếu sẽ rơi vào lối tư duy siêu hình, duy tâm và hệ quả của nó sẽ
dẫn đến sự mất cân bằng trong phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng -
an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
3. Kể từ khi Đảng ta ra đời, vấn đề văn hóa, nghệ thuật cách mạng
luôn được Đảng ta quan tâm, chăm lo, phát triển. Từ năm 1943, Đảng đã ban hành
Đề cương văn hóa Việt Nam.
Trong bản Đề cương này, Đảng ta đã khẳng định rõ thái độ của mình đối với vấn
đề vǎn hoá và vị trí, vai trò của văn hóa trong cách mạng Việt Nam, mối quan hệ
chặt chẽ giữa văn hóa, kinh tế và chính trị. Vì vậy, trong Đề cương về văn hóa Việt Nam công bố năm 1943, Đảng ta viết:
“1. Phạm vi vấn đề: Vǎn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật. 2. Quan
hệ giữa vǎn hoá và kinh tế, chính trị: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế
độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ vǎn hoá của xã hội kia (hạ
tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc). 3. Thái độ Đảng Cộng sản Đông
Dương đối với vấn đề vǎn hoá: a) Mặt trận vǎn hoá là một trong ba mặt trận
(kinh tế, chính trị, vǎn hoá), ở đó người cộng sản phải hoạt động; b) Không
phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng vǎn hoá nữa; c) Có
lãnh đạo được phong trào vǎn hoá, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên
truyền của Đảng mới có hiệu quả.”[1]
Có thể khẳng
định rằng, Đề cương văn hoá Việt Nam là bản cương lĩnh văn hoá đầu tiên của Đảng ta, có tác dụng soi
đường, chỉ lối và định hướng tư tưởng, nhận thức, phương châm hoạt động văn
hóa, văn nghệ cho toàn Đảng, toàn dân và cuộc đấu tranh cách mạng ở Việt Nam; khai
sinh và phát triển nền “vǎn hoá xã hội chủ nghĩa” ở nước ta. Trong cương lĩnh
ấy, Đảng ta chỉ rõ: Để cách mạng Việt Nam đi đến thành công, Đảng cần phải có các tổ chức và đội ngũ cán bộ
chuyên môn hoạt động về văn hoá, văn nghệ để gây dựng và thúc đẩy phong trào
văn hoá tiến bộ, chống lại văn hoá phát xít thụt lùi, văn hóa phong kiến bảo
thủ, lạc hậu...
Sau gần 30 năm đổi mới toàn diện đất nước,
đặc biệt là sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Nét nổi bật là đời sống văn hóa tinh thần của cán bộ, chiến sĩ và nhân
dân ta ngày càng phong phú, đa dạng; đã và đang phát huy tốt các giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc, của gia đình, dòng họ, cộng đồng; từng bước hình
thành các chuẩn mực văn hóa, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Tư duy lý luận của Đảng
ta về văn hóa, nghệ thuật có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của cán bộ,
chiến sĩ và nhân dân được nâng lên; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại
chúng có bước phát triển mạnh mẽ, đáp ứng tốt nhu cầu phát triển và hưởng thụ
các giá trị văn hóa của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân.
Nhờ đó, việc xã hội hóa hoạt động văn hóa
ngày càng được mở rộng, góp phần quan trọng vào việc xây dựng các thiết chế văn
hóa mới một cách đồng bộ, thống nhất, đạt chất lượng, hiệu quả. Công tác quản
lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn
thiện, phù hợp với chủ trương, đường lối mở cửa, hội nhập quốc tế của Đảng ta.
Vì vậy, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của 54 dân tộc anh em trong
cộng đồng văn hóa Việt Nam được bảo tồn, tôn tạo; hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của đồng bào các dân tộc được quan tâm. Đời
sống của văn nghệ sĩ không ngừng được cải thiện; số lượng, chất lượng các công
trình, tác phẩm văn hóa, nghệ thuật ngày càng tăng; quyền tự do sáng tạo được
tôn trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa, nghệ thuật có nhiều khởi
sắc.
4. Tuy đã rất cố gắng, song so với kết quả
đạt được trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,
thì kết quả đạt được trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật chưa tương xứng, chưa
ngang tầm; chưa đủ sức tạo ra “cú hích” đủ mạnh để thúc đẩy phát triển kinh tế
- xã hội, xây dựng con người và môi trường văn hóa xã hội chủ nghĩa lành mạnh;
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
tham nhũng, quan liêu, lãng phí, các tệ nạn và tiêu cực xã hội. Đời sống văn
hóa, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân còn nghèo nàn, đơn điệu, lạc
hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Không ít cán bộ, chiến sĩ
và nhân dân vẫn băn khoăn về tình trạng môi trường văn hóa còn thiếu lành mạnh,
ngoại lai, tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng; đồng thời, mong
muốn được thưởng thức nhiều hơn các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị
cao; bảo tồn, phát huy tốt hơn giá trị di sản văn hóa dân tộc; đổi mới hệ thống
thiết chế văn hóa và tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa
ở cơ sở.
Sở dĩ xây dựng, phát triển văn hóa chưa
ngang tầm với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội... là do nhiều nguyên nhân
chi phối, tác động, song chủ yếu là do nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm
đầy đủ lĩnh vực này; người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chưa chỉ đạo quyết liệt
trong triển khai xây dựng đời sống, môi trường văn hóa mới lành mạnh. Tư duy
coi trọng kinh tế, ham làm giàu; coi nhẹ văn hóa vẫn tồn tại ở không ít cán bộ,
đảng viên. Việc cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và tính
khả thi không cao. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa, nghệ thuật chậm được
đổi mới hoặc đổi mới chậm, bị xem nhẹ, kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. So với
các lĩnh vực khác, đầu tư cho lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật chưa tương xứng, còn
dàn trải và hiệu quả thấp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân
lực văn hóa, nghệ thuật, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp chưa
được quan tâm đúng mức. Đấu tranh phòng, chống sự xâm lăng, xâm nhập, thẩm lậu
của các sản phẩm văn hóa độc hại, các yếu tố “ngoại lai” không phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh Việt Nam chưa thật sự kiên quyết, thậm chí có lúc, có nơi còn
buông lỏng, gây bất bình trong cán bộ, chiến sĩ và nhân dân.
5. Để văn hóa thực sự ngang
hàng với kinh tế, chính trị, xã hội, chúng ta cần bổ sung, hoàn thiện chiến
lược
xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, tạo chuyển biến mạnh
mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, có hiểu biết sâu sắc về lịch sử,
truyền thống, văn hóa dân tộc. Kết hợp chặt chẽ các hoạt động văn hóa với các
hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, với chương trình xây dựng nông thôn mới,
đô thị văn minh, với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, quốc phòng và
an ninh, bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế tri thức. Trên cơ sơ đó,
xây dựng hệ tiêu chí chuẩn mực về giá trị nhân cách con người Việt Nam trong
thời kỳ mới; khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng;
nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn của dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí
Minh .
Phát triển tư duy lý luận, nâng cao trình
độ nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trên cơ sở đổi mới căn bản, toàn
diện công tác giáo dục chính trị, đạo đức và pháp luật, ý thức văn hóa, nghệ
thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, đặc
biệt là thế hệ trẻ. Cân đối các ngành, các lĩnh vực để từng bước nâng dần mức
đầu tư ngân sách, cơ sở vật chất, kỹ thuật để không ngừng nâng cao thể lực, tầm
vóc, trí tuệ con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức,
đạo đức, kỹ năng sống, kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực
xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội; chú
trọng đào tạo, bồi dưỡng tài năng văn hóa, nghệ thuật, đáp ứng yêu cầu xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Kiên quyết đấu tranh
phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các tệ nạn, tiêu cực
xã hội, các hành vi sai trái, ảnh hưởng xấu đến văn hóa chính trị của Đảng. Có
lộ trình, bước đi, giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những mặt hạn chế, khiếm
khuyết của con người Việt Nam.
Chú trọng tổng kết thực tiễn, tiếp thu, kế
thừa kinh nghiệm xây dựng và giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa gia đình,
nhà trường và xã hội của các nước tiên tiến để vận dụng vào điều kiện nước ta
cho phù hợp, hiệu quả. Đầu tư hơn nữa để xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
coi nó không chỉ là “chiếc nôi” hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và
giáo dục nếp sống cho con người mới xã hội chủ nghĩa mà còn là “bệ phóng” để
mỗi cá nhân chủ động, tích cực tham gia xây dựng đời sống văn hóa cộng đồng,
nhất là khu dân cư, các cơ quan, đơn vị..., đạt chuẩn mực về văn hóa; thực hiện
tốt nếp sống văn hóa mới tiến bộ, văn minh, chống các hủ tục trong việc cưới,
việc tang, lễ hội... Đổi mới nội dung, hình thức tổ chức, triển khai thực hiện
các cuộc vận động văn hóa, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam trong con mắt
bạn bè quốc tế.
Văn hóa đã và đang đồng hành cùng dân tộc.
Tăng hàm lượng văn hóa trong từng hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội...là con
đường tất yếu để thực hiện thứng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh/.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét