Trước
những biến động lớn của tình hình thế giới, đặc biệt là trước sự sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu; sự đổi mới, thích nghi và phát
triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại, cũng như việc chậm khắc phục những hạn
chế, bất cập của nền kinh tế bao cấp và một số hiện tượng tiêu cực trong quá
trình đổi mới đất nước, một số người đã dao động, giảm lòng tin vào chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Với cái gọi là “kiến nghị tâm
huyết” với Đảng, Nhà nước, một số người nhân danh “cấp tiến” đề xuất giải pháp
nhằm “thay máu cho hệ tư tưởng”, “phục sinh chủ nghĩa dân tộc” và “sửa lại chủ
nghĩa Mác - Lênin” cho hợp thời và sát với thực tế Việt Nam. Có kẻ còn “sám
hối” rằng, cả đời mình đã tin theo một học thuyết sai lầm, đi theo một con
đường không đúng nên “rơi vào tình cảnh éo le, bế tắc”, “cùng đường”; nay nhận
thức lại “thấy chủ nghĩa tư bản là lời giải đáp đầy đủ cho mọi vấn đề đặt ra
trong cuộc sống của loài người”. Vì vậy, phải “giã từ chủ nghĩa xã hội” để đi
theo chủ nghĩa tư bản.
Gần
đây, trên một số hội thảo quốc tế, người ta bàn nhiều về số phận của học thuyết
Mác. Phần đông các học giả đều thừa nhận giá trị khoa học, cách mạng của học
thuyết Mác, đều khẳng định sự cần thiết phải có học thuyết Mác trong thế giới
hiện đại. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, “chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ là
của quá khứ”, “chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, XX; không phù hợp với thời đại ngày
nay”, “chủ nghĩa Mác - Lênin đã chết cùng với sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và Đông Âu”. Trắng trợn hơn họ còn xuyªn t¹c: “C.Mác và V.I.Lênin là
những nhà xã hội duy tâm, siêu hình và không tưởng”, học thuyết Mác chỉ là “sự
sao chép sống sượng” chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, kinh tế chính trị học
Anh và triết học cổ điển Đức; là “sản phẩm lai tạo”, “hỗn hợp” mang tính chủ
quan, áp đặt, “được nặn ra từ những cái đầu thiển cận của C.Mác và Ph.Ăngghen”.
ë nước ta, lợi dụng các cuộc hội thảo khoa học, một số người
đã đưa ra nhiều lý lẽ ®Ó phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội mà nhân dân ta đã chọn; xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
ta. Điều hết sức nguy hiểm là các quan điểm sai trái này bằng nhiều hình thức
đã được tán phát, lan truyền rất nhanh, được đưa lên mạng Internet, công bố
trên các sách báo, đài phát thanh của các thế lực thù địch. Vì thế, chúng đã và
đang gieo rắc hoang mang, hoài nghi cho nhiều người, để lại những hậu quả không
thể xem thường trong xã hội ta. Bằng cách này, họ muốn “chuyển lửa về quê nhà”,
tạo nên sự “diễn biến bên trong” xã hội ta, trước hết là diễn biến về nhận
thức, tư tưởng; từ đó dẫn đến những diễn biến về mặt khác.
Chúng
ta không hề ngạc nhiên trước những quan điểm xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin, vì
những “điệp khúc” này đã ®îc “tua” nhiều lần kể từ khi chủ nghĩa Mác ra đời
cho đến nay; chỉ có điều nó được thể hiện rất khác nhau bởi các “ngữ điệu” khác
nhau qua các kiểu loại kẻ thù “lớn nhỏ” của C.Mác. Vì sao họ lại chống chủ
nghĩa Mác một cách điên cuồng và quyết liệt như vậy? Hẳn là họ ý thức rất rõ
sức sống mãnh liệt cũng như sự nguy hiểm của chủ nghĩa Mác đối với sự tồn tại,
phát triển và lợi ích của họ, nhất là khi chủ nghĩa Mác - Lênin trë
thµnh hệ tư
tưởng thống trị của giai cấp công nhân, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của các Đảng Cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam. Hẳn là họ hiểu
rằng, chừng nào còn chủ nghĩa Mác - Lênin thì chừng ấy còn có Đảng Cộng sản,
còn có phong trào công nhân và cuộc đấu tranh của giai cấp này tất yếu sẽ tiêu
diệt họ; chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản tất yếu sẽ được xây dựng thành
công. Do đó, họ sẽ bị diệt vong. Sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa Mác -
Lênin là hoàn toàn có hại cho họ, hẳn là họ không mong muốn mình có kết cục “bi
thảm” như thế; họ không thể ngồi nhìn sự “chết dần, chết mòn” của mình; họ
không thể “chịu đựng nổi” uy tín và vai trò ngày càng tăng lên của Đảng Cộng
sản, ưu thế và sự hồi sinh của chủ nghĩa xã hội. Để cứu lấy mình, họ buộc phải
dùng mọi biện pháp, thủ đoạn ®Ó chống phá, hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lênin.
Kể từ năm 1930, đặc biệt là sau Đại hội lần thứ VII (năm 1991) đến
nay, Đảng và nhân dân ta luôn khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách
mạng Việt Nam. Ngay sau đó, trên các sách báo, đài phát thanh của các thế lực
thù địch, luôn có những bài viết xuyên tạc, vu khống, bác bỏ chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Chúng không chỉ phê phán, phủ nhận các luận điểm, mà còn xuất phát từ cội
nguồn, gốc rễ, lịch sử hình thành, phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh ®Ó phê phán. Vì kẻ thù hiểu rõ, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời
ở châu Âu, được truyền bá sang Việt Nam thông qua các tài liệu dịch
thuật. Người Việt Nam hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh và các tài liệu dịch thuật do Hồ Chí Minh chuyển về nước.
Tuy nhiên, do nhiều lý do nên chỉ có một bộ phận nhân dân Việt Nam
có điều kiện đọc, nghiên cứu và hiểu được những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, còn phần đông nhân dân lao động mới hiểu biết chủ nghĩa Mác -
Lênin ở những điểm căn bản nhất. Trong đó có một vấn đề cơ bản là lịch sử quá
trình hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin thì rất ít người Việt Nam
hiểu biết tường tận, sâu sắc. Lợi dụng điểm hạn chế này, kẻ thù đã xuyên tạc,
bóp méo sự thật về nguồn gốc và bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác
- Lênin.
Với hy vọng “mưa dầm thấm
lâu”, “nước chảy đá mòn”, chóng nhiều lần ®a ra các luận điểm chống chủ nghĩa
Mác, làm cho một số người nhẹ dạ, cả tin “tán thưởng, hùa theo”, nói xấu chủ
nghĩa Mác - Lênin, ca ngợi chủ nghĩa tư bản. Để những người này tỉnh ngộ, nhận
thức ra lẽ phải, trong công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, chóng ta cần
làm rõ bản chất khoa học, cách mạng của quá trình hình thành, phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin. Đây là một “liều thuốc đặc hiệu” có thể cắt đứt “căn bệnh
hoang tưởng” của những người ảo tưởng về lòng tốt, đức tính “nhân từ”, “b¸c ái”
của chủ nghĩa tư bản.
Chủ
nghĩa Mác đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở nước Đức, do C.Mác và
Ph.Ăngghen sáng lập. Ban đầu, chỉ là “một bóng ma ám ảnh châu Âu”, song vào
những năm 70 của thế kỷ XIX, nó đã trở thành hệ tư tưởng thống trị phong trào
công nhân quốc tế, là cương lĩnh và là nền tảng tư tưởng của các Đảng Cộng sản;
đến năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi và sau Chiến tranh thế giới
lần thứ II, hệ thống các nước chủ nghĩa xã hội ra đời. Điều đó chứng minh rằng,
chủ nghĩa Mác không phải là “một học thuyết bè phái” mà là một học thuyết khoa
học và cách mạng. Bằng lao động sáng tạo, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chuyển chủ
nghĩa xã hội không tưởng thành lý luận khoa học và V.I.Lênin đã ®a lý luận khoa học vào
thực tiễn cuộc sống, làm nên cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại; mở ra thời
đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới và cách mạng vô sản.
Chủ
nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử, từ các điều kiện khách quan và các
nhân tố chủ quan đã phát triển chín muồi chứ kh«ng ph¶i “được nặn ra từ những
cái đầu thiển cận, mang nặng tính chủ quan, áp đặt của C.Mác và Ph.Ăngghen” nh
ngêi ta cè t×nh xuyªn t¹c.
Ai
cũng biết rằng, vào những năm 40 của thế kỷ XIX, lực lượng sản xuất của chủ
nghĩa tư bản phát triển rất mạnh mẽ, ưu thế của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã được khẳng định và cách mạng tư sản đã thắng lợi. ThÕ
nhng, ngọn
cờ
“tự
do, bình đẳng,
b¸c ái” và những lời hứa của giai
cấp tư sản trong qu¸ tr×nh c¸ch m¹ng, giờ đây chỉ còn lại là
“chiếc bánh vẽ”. Thành quả và lợi ích của cuộc cách mạng tư sản đã bị giai cấp
tư sản chiếm đoạt mà không hề đếm xỉa đến lợi ích của những người bạn đồng minh
là giai cấp vô sản - những người đã xông pha lửa đạn, hy sinh xương máu làm nên
thắng lợi của cách mạng.
Bị
lừa dối và phản bội, giai cấp vô sản đã thức tỉnh và họ hiểu rằng, kẻ thù của
mình không phải là “máy móc” mà chính là giai cấp tư sản. Vì vậy, họ đã liên
hợp lại, kiên quyết đứng lên đấu tranh đòi lại quyền sống cho mình. Cuộc đấu
tranh “một mất một còn” của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ngày càng
quyết liệt.
C.Mác
và Ph.Ăngghen sống trong thời đại ấy, tận mắt chứng kiến các biến cố lịch sử,
đã phát hiện ra vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản - những người
“đào huyệt” chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản. Các ông đã xây dựng lý luận khoa học, cách mạng là chủ nghĩa Mác để trang
bị cho giai cấp công nhân. Tất cả những điều nêu trên chỉ diễn ra trong thập kỷ
thứ ba và thứ tư của thế kỷ XIX, khi mà C.Mác và Ph.Ăngghen đang ở độ tuổi
trưởng thành; những điều kiện khách quan này đã phát triển và đạt độ chín muồi,
tác động trực tiếp đến C.Mác và Ph.Ăngghen, cho phép c¸c
«ng tiếp
thu, kế thừa và xây dựng học thuyết khoa học, cách mạng. Đó cũng là điều giải
thích rõ: Tại sao các bậc tiền bối của C.Mác và Ph.Ăngghen lại không thể phát
hiện ra vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và các bậc tiền bối ấy
không thể xây dựng nên học thuyết khoa học, cách mạng cho giai cấp vô sản mặc
dù họ chỉ hơn C.Mác 10 - 15 tuổi. Những ai nói rằng, chủ nghĩa Mác được “nặn ra
từ những cái đầu thiển cận của C.Mác và Ph.Ăngghen...” hẳn là phải học lại bài
học lịch sử này.
Chủ
nghĩa Mác - hệ tư tưởng của giai cấp vô sản không phải là “sự ba hoa của kẻ làm
trò ảo thuật, mà là sự chứng minh bởi lịch sử của khoa học hiện đại”. Để xây
dựng học thuyết của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa tất cả những tinh hoa
trí tuệ trong lịch sử tư tưởng nhân loại. V.I.Lênin viết: “Lịch sử triết học và
lịch sử khoa học xã hội chỉ ra một cách hoàn toàn rõ ràng rằng, chủ nghĩa Mác
không có gì là giống “chủ nghĩa tông phái”, hiểu theo nghĩa là một học thuyết
đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ đại của văn
minh thế giới”. Người còn chỉ rõ, học thuyết của C.Mác “ra đời là sự kế thừa
thẳng và trực tiếp những học thuyết của những đại biểu xuất sắc nhất trong
triết học, trong kinh tế chính trị và trong chủ nghĩa xã hội”1. Về điều này, bản thân C.Mác, từ năm
1846, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, đã nói rõ. 40 năm sau, tức là vào năm
1886, trong tác phẩm: “L.Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”,
Ph.Ăngghen đã giải đáp tường tận nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác, nói rõ
C.Mác đã kế thừa những giá trị của các bậc tiền bối và đã độc lập nêu ra các
quan điểm của mình như thế nào. Ph.Ăngghen coi đó là “việc làm danh dự” rất cần
thiết để “trả món nợ lương tâm” mà 40 năm trước, C.Mác đã trình bày vấn đề này
trong “Hệ tư tưởng Đức”, nhưng thời đó, “Hệ tư tưởng Đức” chưa được xuất bản.
Gọi là đọc chủ nghĩa Mác, hiểu chủ nghĩa Mác mà lại không rõ những chi tiết
này, để rồi coi chủ nghĩa Mác là “học thuyết đẻ non”, “là sản phẩm sống sượng”,
“nặn ra từ những cái đầu thiển cận của C.Mác và Ph.Ăngghen”, là “sự sao chép
học thuyết của Aristốt, Ric¸cđô; Xanhximông, Hêghen, Phoiơbắc” thì như thế
râ rµng là sù xuyªn t¹c tr¾ng trîn.
C.Mác
và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu và kế thừa kinh tế chính trị học Anh, chủ nghĩa xã
hội không tưởng Pháp và triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Hêghen
và Phoiơbắc. Ph.Ăngghen cho rằng, C.Mác vĩ đại bởi vì ông “biết đứng trên vai
của những người khổng lồ”: Đó là Ricacđô, A.smít, Xanhximông, Phuriê, Hêghen và
Phoiơbắc..., không có các vị ấy, chắc chắn không thể có chủ nghĩa Mác. Chính
“tư tưởng tiến bộ” và “hạt nhân hợp lý” trong học thuyết của các bậc tiền bối
đã được C.Mác kế thừa, bằng cách gạn lọc bỏ 9 phần bả, lấy một phần chất để xây
dựng nên học thuyết khoa học, cách mạng cña m×nh. Với tính cách là những
bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa
học và chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử đều có sự biến
đổi về chất so với nguồn gốc của chúng. Coi chủ nghĩa Mác như “sự lắp ghép cơ
học của kinh tế chính trị học Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và triết
học cổ điển Đức” lµ không hiểu ®óng b¶n chÊt chủ
nghĩa Mác.
Có
một thực tế là, trong giáo dục lý luận chính trị phổ thông và tuyên truyền chủ
nghĩa Mác - Lênin, thời gian qua, chúng ta chưa có điều kiện làm rõ nguồn gốc
hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác mà chỉ tập trung làm rõ hệ thống quan điểm
của Người. Điều đó đã đem lại những nhận thức khác nhau, nhất là khi mọi người
“tiếp cận” những thông tin sai lệch, thậm chí xuyên tạc chủ nghĩa Mác. Người ta
“nửa tin nửa ngờ” về tính chân lý của học thuyết Mác; do đó đã có hàng loạt câu
hỏi đặt ra: Tại sao chủ nghĩa Mác là học thuyết khoa học, cách mạng, được các
Đảng Cộng sản coi là nền tảng tư tưởng mà chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu
lại sụp đổ? Tại sao các nước theo chủ nghĩa Mác - Lênin lại là những nước nghèo
đói, còn chủ nghĩa tư bản lại giàu có? Có phải C.Mác và V.I.Lênin là những nhà
xã hội duy tâm, siêu hình và không tưởng?
Những
câu hỏi tương tự nêu trên đều có vấn đề của nó. Một mặt, chúng ta trang bị hệ
thống quan điểm lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin cho nhân dân chưa đủ
độ để họ có thể tự giải đáp mọi vấn đề mà thực tiễn đặt ra và đủ sức chống lại
các quan điểm sai trái. Mặt khác, nhân dân không hiểu nguồn gốc hình thành và
phát triển của các quan điểm ấy, chỉ nắm “phần ngọn” nên rất dễ lầm lẫn. Nếu họ
hiểu rõ các điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề lý luận, khoa học tự nhiên
của sự ra đời chủ nghĩa Mác, cũng như quá trình hình thành và phát triển chủ
nghĩa Mác, họ sẽ vững tin hơn khi xem xét và bác bỏ các quan điểm sai trái.
Hiện nay, rất ít người hiểu rõ vai trò và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong khoa
học tự nhiên hiện đại đối với sự hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác, nhất là
ba phát minh vạch thời đại: học thuyết tế bào của Svan, Slâyđen; Định luật bảo
toàn và chuyển hoá năng lượng của Maiơ, Lorensơ; Học thuyết tiến hoá của
Đacuyn.
Kẻ
thù của chúng ta rất rõ điều này, chúng đã khoét sâu các điểm yếu đó, gieo rắc
sự hoài nghi về chủ nghĩa Mác thông qua việc “đánh lộn sòng” học thuyết khoa học,
cách mạng với chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo. Ai cũng biết rằng, giữa lý luận và
thực tiễn còn có khoảng cách, trong khi đó bản thân lý luận chưa được làm rõ,
chưa có nhận thức đầy đủ thì vấn đề này và vấn đề kia còn có khoảng cách là
đương nhiên. Có một thực tế là cả người đi tuyên truyền lẫn người được tuyên
truyền và vận dụng lý luận khoa học chưa được chuẩn bị kỹ về mặt lý luận thì
trong thực tiễn, sự áp dụng, vận dụng lý luận khoa học tất yếu sẽ gặp phải
vướng mắc. Chưa hiểu rõ cội nguồn gốc rễ của sự ra đời, phát triển chủ nghĩa
Mác, chưa hiÓu sâu sắc lịch sử ra đời chủ nghĩa Mác thì niềm tin vào chủ
nghĩa Mác chưa trọn vẹn và đầy đủ. Do đó, bản lĩnh của người cách mạng dễ bị
“bẻ cong” trước những “ngón đòn tấn công hiểm độc” của kẻ thù.
Tung
ra các luận điệu: “Chủ nghĩa Mác là một học thuyết đóng kín “siêu hình, duy
tâm”..., những người có quan điểm đối lập đã cố tình bóp méo sự thật, xuyên tạc
quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác, vu khống “sự sai lầm của
chủ nghĩa Mác”. Việc làm này diễn ra ở thời hiện tại, song vÒ
thùc chÊt
vẫn như một trăm năm trước đây các bậc thầy của họ đã từng làm.
Vượt
qua mọi “làn sóng” chèng ph¸, chủ nghĩa Mác với những giá trị chân
thực: khoa học và cách mạng, vẫn tỏ rõ sức sống trường tồn và bất diệt. Trước
đây, các thầy “phù thuỷ” cao tay đã không thể hạ gục chủ nghĩa Mác, thì nay hậu
duệ của họ, dù lắm mưu, nhiều kế cũng không thể làm gì hơn thế. Sức sống của
chủ nghĩa Mác được nuôi dưỡng bằng tinh hoa trí tuệ nhân loại và thực tiễn cách
mạng. Nhờ đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã “lột xác”, chuyển lập trường, từ chủ nghĩa
duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản.
Quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và chủ nghĩa cộng sản đã ra đời
từ mảnh đất hiện thực. Các tác phẩm trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa Mác đã
thể hiện rất rõ vấn đề này. Mỗi sự kiện như một nấc thang kế tiếp, nuôi dưỡng
tư duy lý luận của Mác và chính nó đã giúp ông sáng lập ra chủ nghĩa Mác. Sau
cách mạng tư sản Tháng Hai năm 1848, cũng như sau Công xã Pari năm 1871... ,
C.Mác và Ph.Ăngghen đều tiến hành tổng kết lịch sử, khái quát những bài học
kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn cách mạng, bổ sung, hoàn thiện chủ nghĩa Mác.
Lịch
sử triết học và lịch sử khoa học hiện đại ghi rõ từng sự kiện, cả nhân loại đều
có chung nhận thức như thế; cớ sao lại có người cố tình xuyên tạc, bóp méo sự
thật, lừa dối lương tâm, phản bội chính mình, lừa gạt mọi người. Hiểu cho đúng
sự thật, tôn trọng sự thật thì phải thừa nhận rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất từ trước đến nay bàn
về mục tiêu, con đường, điều kiện, lực lượng và phương pháp giải phóng triệt để
xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi áp
bức bóc lột, bất công, tha hoá, đói nghèo dưới mọi hình thức. Chủ nghĩa Mác
chỉ ra những quy luật vận động, phát triển của thế giới khách quan, sự diệt
vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản; đưa giai cấp công nhân và những người dân lao động từ nô lệ,
lầm than lên địa vị làm chủ xã hội.
Với
việc phát hiện ra quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư,
chủ nghĩa Mác đã đem lại niềm tin vào thắng lợi cuối cùng cho giai cấp vô sản.
Đó cũng là điều giải thích rõ tại sao Hồ Chí Minh lại đi tìm chủ nghĩa Mác -
Lênin, tại sao Đảng ta khẳng định: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam
và tại sao kẻ thù của chúng ta lại quyết liệt tấn công nhằm thủ tiêu chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Có
thể nói gì về những người cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin? Nói rằng, đó
là những kẻ lừa dối lương tâm, cản trở tiến bộ xã hội, phản bội loài người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét