Cách
chọn cán bộ của Bác Hồ để thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân
Tại điểm 1 của
Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Bác viết: “sẽ chọn
lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên
quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ
lực”. Vì sao Bác lại khẳng định phải chọn số cán bộ và đội viên kiên quyết,
hăng hái nhất trong hàng ngũ những người du kích Cao - Bắc - Lạng để thành lập
Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân mà không chọn cán bộ, đội viên ở các
địa phương khác? Bởi vì, giữa
năm 1944, Mặt trận Việt Minh phát triển mạnh ở vùng Cao - Bắc - Lạng. Tại đây,
chúng ta đã có những đội du kích vũ trang, được huấn luyện quân sự và sinh hoạt
nền nếp nhưng hoạt động tuyên truyền chính trị của cán bộ Việt Minh vẫn chưa
hoàn toàn kết hợp được với hoạt động vũ trang. Cả hai hoạt động này, có lúc còn
mang nặng tính tự phát, mạnh nơi nào thì nơi ấy làm, thậm chí hoạt động quân sự
và chính trị, giữa đội vũ trang này với đội vũ trang khác có nơi, có lúc tách
rời nhau; thiếu sự chỉ lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, nên nó chưa
phát huy tốt tác dụng, hiệu quả trong gây dựng cơ sở, làm “hạt giống”, phát
triển phong trào cách mạng để nó lan rộng và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các địa
phương khác ở trung du và đồng bằng, nhất là thu hút, lôi cuốn đồng bào ta đang
sống trong vùng kiểm soát của người Pháp, dù đó chỉ là sự kiểm soát hình thức,
lỏng lẻo, đứng về phía cách mạng, ủng hộ Mặt trận Việt Minh chống thực dân Pháp
xâm lược.
Trong bối cảnh đó, Bác Hồ nhận thấy nếu
chỉ chăm lo xây dựng các đội vũ trang, tập trung vào huấn luyện quân sự mà coi
nhẹ công tác tuyên truyền chính trị, vận động quần chúng thì cách mạng sẽ khó
thành công, thắng lợi trở nên xa vời. Vì vậy, Bác đã bàn với trung ương và ra
chỉ thị về việc thành lập một đội quân chủ lực, nhân sự nòng cốt lấy từ các cán
bộ chính trị, đội viên du kích kiên quyết, hăng hái nhất, cách mạng nhất ở vùng
Cao - Bắc - Lạng, làm nhân cốt thúc đẩy mạnh mẽ việc gây dựng, phát triển phong
trào cách mạng trong quần chúng nhân dân để nó lan rộng, ảnh hưởng đến mọi miền
của đất nước.
Tiêu chuẩn chọn lựa cán bộ, du kích để
thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền
giải phóng quân, theo Bác, cần nhấn mạnh hai điểm; trước hết, phải chọn
lựa được những cán bộ, du kích “kiên quyết nhất”, tức là những người có tác
phong quân sự mạnh mẽ, quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm;
biết nắm bắt và xử lý linh hoạt, uyển chuyển nhưng mau lẹ, dứt khoát, có hiệu
quả mọi tình huống mới nảy sinh, miễn là biết lấy “bất biến để ứng vạn biến”,
thực hiện tốt phương châm “được người, được việc, được quan hệ”. Có làm được
như vậy, cách mạng mới có lợi; đường lối, chủ trương, phương châm lãnh đạo của
Đảng, sự chỉ đạo của Mặt trận mới trở thành hiện thực. Điều đó, đối lập với tác
phong, phong cách làm việc cầm chừng, do dự, chần chừ, thiếu quyết đoán, lúc
“thuận buồn xuôi gió thì tung hô”, lúc cách mạng gặp hiểm nguy, thử thách thì
thoái thác hoặc ngại khó, ngại khổ, sợ trách nhiệm, để tuột mất thời cơ, gây
hại cho cách mạng, thậm chí có thể gây đổ máu, hy sinh tính mạng của đồng chí,
đồng đội và nhân dân.
Thứ
hai, cùng với việc chọn
lọc những cán bộ, du kích “kiên quyết nhất”, Bác đồng thời chỉ rõ: phải chọn
những cán bộ, du kích “hăng hái nhất”, tức là những người tâm huyết, nhiệt tình
cách mạng, luôn có chí tiến thủ, tinh thần tiến công, xung kích đi đầu, không
sợ khó khăn, gian khổ, không sợ hiểm nguy; sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống. Điều đó trái ngược với những cán
bộ “thứ nhất ngồi ỳ, thứ nhì đồng ý, thứ ba ra về”, “dễ làm, khó bỏ”. Dụng ý
của Bác trong tuyển chọn cán bộ, đội viên du kích ở Cao - Bắc - Lạng để thành
lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải
phóng quân là mong muốn xây dựng cơ sở, nền móng vững chắc tại căn cứ địa Việt
Bắc, để từ đó, từng bước thử nghiệm, đúc rút kinh nghiệm xây dựng một đội quân
chủ lực của cách mạng. Đội này có thể đi từ Nam ra Bắc, khắp mọi miền đất nước,
có thể giúp các đội đàn em nhanh chóng phát triển, lớn mạnh, trưởng thành. Muốn
được như vậy, bước đầu phải hướng vào giải quyết khâu trọng yếu nhất, đang
vướng nhất là tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho quảng đại quần
chúng nhân dân, giúp họ hiểu biết, tin tưởng, một lòng đi theo và ủng hộ cách
mạng. Trong điều kiện, hoàn cảnh ấy, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân cần tập trung thực hiện
tốt phương châm: “chính trị trọng hơn quân sự”, “tuyên truyền trọng hơn tác chiến”. Bởi lẽ,
“chính trị là “cái gốc” của quân sự. Chính trị thể hiện rõ trong đánh giặc. Cho
nên, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải
phóng quân phải là một
tổ chức quân sự kiểu mới, mang bản chất của giai cấp công nhân, tính nhân và
tính dân tộc sâu sắc và chính nó sẽ là tiền thân của Quân đội nhân dân
Việt Nam sau này, đúng như Bác khẳng định: “Nó là khởi điểm đầu của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Bắc chí
Nam, khắp đất nước”, có nhiệm vụ dìu dắt, giúp đỡ các đội vũ trang của địa phương,
giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội vũ trang
của địa phương ngày càng lớn mạnh, trưởng thành. Sứ mệnh của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân là rất
lớn; trách nhiệm của mỗi cán bộ, đội viên là hết sức nặng nề nhưng vô cùng vẻ
vang. Họ vừa là người cầm súng, vừa cầm bút viết nên trang lịch sử mới của nước
Việt Nam
độc lập.
Vì vậy, trong
một tổ chức quân sự đặc biệt ấy tất yếu cần phải có những con người đặc biệt để
thực hiện những công việc đặc biệt quan trọng mà Đảng và Mặt trận Việt Minh tin
tưởng giao phó, nhân dân ủy thác. Việc “chọn mặt gửi vàng” của Bác, của Trung
ương và Mặt trật Việt Minh không thể là ai khác mà phải là những người ưu tú nhất của các đội du
kích Cao - Bắc - Lạng, những chiến sĩ cách mạng đã được chọn lọc, huấn luyện
quân sự, chính trị kỹ lưỡng, dân vận khéo, sức khỏe tốt; tuyệt đối trung thành
với mục đích, lý tưởng của Đảng; nắm vững đường lối, chủ trương, quan điểm của
Đảng, của Mặt trận Việt Minh; có khả năng diễn thuyết, giáo dục, thuyết phục
mọi người để gây lòng tin cậy trong nhân dân, để nhân dân tin tưởng, yêu quý Bộ
đội Cụ Hồ và một lòng đi theo, phục vụ cách mạng; đồng thời, những cán bộ, du
kích được chọn lựa tham gia Đội Việt
Nam Tuyên truyền giải phóng quân phải là những người gắn bó máu thịt với
nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; gương mẫu đi đầu, sẵn
sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Hơn ai hết, họ phải là
những người địa phương, có hiểu biết sâu sắc phong tục, tập quán, đặc điểm tâm lý
- xã hội; am tường tình hình địch, ta, thông thạo địa hình, đường sá, dòng
sông, con suối; thời tiết, khí hậu; có sức khỏe và sức chịu đựng bền bỉ, dẻo
dai, khó khăn, gian khổ không lùi bước; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
và dám hy sinh vì cách mạng. Điều này thể hiện một cách cô đọng, sâu sắc trong
Mười lời thề danh dự và Mười hai điều kỷ luật của đội viên Đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân.
Nói một cách khác, ở họ phải hội tụ đầy đủ
những phẩm chất và năng lực mà người đội viên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân cần phải có để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ cách mạng hết sức nặng nề nhưng vô cùng vẻ vang mà Đảng và
Bác Hồ tin tưởng giao phó. Chính vì mục đích này, ngay từ đầu Chỉ thị,
Bác đã viết: “Tên: Đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên
truyền”, đội quân đi gây dựng, phát triển phong trào cách mạng không chỉ ở
chiến khu Việt Bắc mà rộng khắp cả nước, gánh vác trọng trách khai phá, mở
đường, làm nòng cốt xây dựng đội quân chủ lực của các lực lượng vũ trang nhân
dân cách mạng, cùng toàn dân đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành lại cơm
no, áo ấm, độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phức cho đồng bào. Nói đúng nghĩa,
đó là “đội cứu nguy cho dân tộc”. Chính vì vậy, ở cuối Chỉ thị Bác khẳng định:
“Tuy lúc đầu, quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang”.
Kết
quả và giá trị, ý nghĩa của cách chọn lựa nhân sự của Bác Hồ
Ngày 22 tháng 12 năm 1944
đã đi vào lịch sử Quân đội ta, dân tộc ta như một mốc son chói lọi: Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân
đã chính thức ra đời tại khu rừng nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám (nay
thuộc tỉnh Cao Bằng) với 34 chiến
sĩ, được chia thành 3 tiểu đội. Đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ
huy chung; đồng chí Hoàng Sâm được chọn làm đội trưởng; đồng
chí Xích Thắng, tức Dương Mạc Thạch,
làm chính
trị viên, đồng chí Hoàng Văn Thái phụ
trách tình báo và kế hoạch
tác chiến; đồng chí Lâm Cẩm Như, tức Lâm Kính,
phụ trách công tác chính trị; đồng chí Lộc Văn Lùng tức Văn Tiên làm
quản lý. Vũ khí ban đầu có 2 súng thập (súng ngắn 10 viên), 17 súng trường, 14 súng kíp.
Sau khi thành lập, Đội đã đánh thắng hai
trận đầu tiên ở Phai Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng). Sau 2 trận đánh mở đầu, Đội đã họp
rút kinh nghiệm và tập trung vào công tác tuyển thêm quân, củng cố lực lượng,
học tập chính trị, huấn luyện chiến đấu và giúp dân xây dựng phong trào cách
mạng tại các địa phương. Chỉ sau đó ít lâu, quân số của Đội tăng lên rất nhanh.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã xin ý kiến của Bác và Mặt trận Việt Minh. Theo đó,
Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng
quân đã được phép nâng cấp, xây dựng thành đại đội. Đồng chí Hoàng Sâm làm đại đội trưởng, đồng chí Xích
Thắng làm chính trị viên. Phạm vi hoạt động của Đội không ngừng mở rộng, đã lan
ra khắp các huyện Hòa An, Nguyên Bình (Cao Bằng), Ngân Sơn, Chợ Rã (Bắc Kạn), Na Rì (Bắc Kạn), Chiêm Hóa (Tuyên Quang), Thất Khê, Bình Gia (Lạng Sơn) ...
Cuối tháng 3, đội Việt Nam Tuyên truyền
Giải phóng quân đã gặp Cứu quốc quân ở Chợ Chu (Thái Nguyên). Ngày 15 tháng 5 năm 1945,
tại Chợ Chu, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân hợp nhất với Cứu quốc quân
và một số đơn vị du kích thành lực lượng quân sự thống nhất, lấy tên là Việt Nam Giải phóng
quân. Từ đây, quân đội ta không ngừng phát triển, tăng nhanh về số
lượng, đảm bảo chất lượng, cơ cấu, thành phần ngày càng hợp lý; nhờ đó, đã có
những đóng góp đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng,
của cách mạng Việt Nam, cùng toàn Đảng, toàn dân làm nên cách mạng Tháng Tám
thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; làm nên chiến thắng
Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và Đại thắng mùa Xuân
1975, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Điều đó khẳng định rõ việc ra đời của Đội
Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân là một đường lối đúng, một chủ trương
đúng, một chính sách đúng của Đảng ta và Bác Hồ kính yêu; nó là một trong những
nhân tố mang ý nghĩa quyết định liên quan đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng; là bài học mang ý nghĩa giáo dục chịnh
trị tư tưởng sâu sắc đối với công tác đảng, công tác chính trị, đặc biệt là
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của quân đội nói chung, xây dựng đội ngũ cán
bộ chính trị của quân đội ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay nói riêng.
Không thể nói rằng, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị ngày nay rất tốt
nếu không xem lại cách chọn lựa nhân sự, nhất là đội ngũ chính ủy, chính trị
viên của chúng ta theo tiêu chí chọn lựa cán bộ, đội viên du kích của Bác Hồ đã
nêu trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân các đây
tròn 70 năm. Không thể xây dựng thành công đội ngũ cán bộ chính trị ngày nay
nếu không nghiên cứu kỹ cách chọn lựa người, cách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của
Bác, từ đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đại tướng Nguyễn Chí Thanh đến đội
ngũ cán bộ cao cấp của quân đội ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ.
Học
tập và làm theo lời ở Bác dặn để xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị hiện nay
Trước hết, muốn
xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ
chính trị vững mạnh, thật sự “vừa hồng vừa chuyên” trong bối cảnh tình hình
phức tạp hiện nay, làm cơ sở để xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn
vị vững mạnh toàn diện, thiết nghĩ mỗi cán bộ chính trị, nhất là các đồng chí
chính ủy, chính trị viên - người chủ chỉ về chính trị ở đơn vị cơ sở cần nhận
thức sâu sắc và nêu tấm gương mẫu mực trong thực hiện những lời căn dặn của Bác đối với cán bộ và chiến sĩ các lực lượng
vũ trang nhân dân: "Phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, kỹ thuật
và văn hoá, ra sức công tác và lao động, tăng cường sản xuất, thực hành tiết
kiệm, góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội; Phải trau dồi đạo đức cách mạng, đoàn
kết, khiêm tốn, hết lòng vì Đảng, vì nhân dân; Phải nâng cao chí khí chiến đấu,
luôn luôn sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình".
Trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào
cũng vậy, người cán bộ chính trị cũng "Không được tự mãn, không được
tự kiêu. Trái lại, cần phải khiêm tốn, cần phải đoàn kết, cần phải ra sức thi
đua học tập, học tập về chính trị, học tập văn hoá, học tập kỹ thuật";
phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của nhân
dân; thực hiện đúng những điều dặn dò của Bác: "Quân đội ta trung với
Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc,
vì Chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng". Có thực hiện tốt những điều căn dặn của Bác
trong điều kiện hiện nay thì Quân đội ta mới thật sự có sức mạnh, chúng ta mới
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Nguồn gốc của sức mạnh ấy, theo Bác, là do
cán bộ ta gương mẫu, chiến sĩ ta đoàn kết, quân dân nhất trí đồng lòng, xã hội
ta có sự đồng thuận cao. Làm, được như vậy thì không có khó khăn nào ngăn
đường, cản lối chúng ta tiến lên phía trước. Kể từ khi ban hành Chỉ thị thành lập
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân cho đến khi từ giã cõi đời này, lúc
nào Bác cũng dành tình cảm sâu sắc nhất cho cán bộ, chiến sĩ quân đội ta. Người
luôn luôn căn dặn cán bộ chính trị phải yêu thương chiến sĩ như “người anh,
người chị hiền”, như anh em ruột thịt, hết lòng hết sức chăm lo cho họ, cùng
ăn, cùng ở, cùng làm, cùng lo, cùng vui với chiến sĩ thì nhất định chiến sĩ sẽ
tôn kính, tin tưởng, làm theo; nhiều việc tốt theo đó sẽ sinh sôi, nảy nở, đơm
hoa, kết trái. Vì vậy, càng khó khăn, càng gian khổ thì cán bộ chính trị càng
phải gắn bó, gần gũi anh em, chiến sĩ, “chia sẻ” với họ, lúc buồn cũng như lúc
vui. Đồng thời, tự bản thân mỗi cán bộ chính trị, nhất là chính ủy, chính trị
viên phải khiêm tốn, cố gắng hơn nữa, phải học tập nhân dân, chiến sĩ để tiến
bộ không ngừng; đồng thời phải nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng
chiến đấu, đập tan mọi hành động và âm mưu chống phá của mọi kẻ thù.
Điều thứ hai, tôi muốn được bàn ở hội thảo
này là, nghiên cứu thật kỹ cách chọn lựa cán bộ của Bác để vận dụng sáng tạo
vào công tác tuyển chọn nguồn đào tạo, bồi dưỡng cán cán bộ chính trị hiện nay.
Chúng ta cần nghiêm túc nhìn nhận lại những việc chúng ta đã làm, tự mỗi người
có thể trả lời được câu hỏi: Chúng ta đã lựa chọn đúng những người ưu tú nhất,
“kiên quyết và hăng hái nhất” trong thanh niên hiện nay để đào tạo cán bộ chính
trị hay chưa? Phải chăng vì cần có công ăn, việc làm, không phải đóng học phí,
được quân đội nuôi dưỡng mà nhiều thanh niên làm đơn xin thi tuyển vào Trường
Sĩ quan Chính trị và một số trường đại học khác của quân đội? Trong thành phần
học viên đã tốt nghiệp và hiện nay có bao nhiêu phần trăm con em cán bộ cao
cấp, làm việc ở các cơ quan Trung ương từ cấp vụ trưởng, vụ phó trở lên tự
nguyện theo học ở các Nhà trường quân đội để trở thành sĩ quan, phục vụ quân
đội lâu dài hay phần lớn chỉ là con em nông dân và một số ít con em sĩ quan
quân đội do ít có cơ hội đi học bên ngoài mới đi học trong quân đội? Chúng ta
sẽ thấy rõ hơn điều này qua số lượng các học viên thi vào các Nhà trường quân
đội, học văn bằng hai, để trở thành sĩ quan quân đội do sau khi tốt nghiệp
nhiều năm không xin được việc làm và nhìn xa hơn, khảo cứu kết quả công tác,
mức độ hoàn thành nhiệm vụ của số cán bộ đào tạo theo hình thức này chúng ta
không thể vui lòng, nếu không nói là đáng thất vọng. Chỉ một số ít trong họ là
tâm huyết, nhiệt tình, có chí tiến thủ, thật sự an tâm công tác, phục vụ quân
đội lâu dài, số còn lại, đã và đang hoạt động “cầm chừng”, thậm chí luôn so
sánh thiệt hơn, ngại rèn luyện, không chịu được khó khăn, gian khổ, muốn xin về
cơ quan quân sự địa phương hoặc tìm cơ hội xin ra quân.
Thời nay, kinh tế thị trường, hội nhập
quốc tế và toàn cầu hóa đã tác động khá sâu sắc đến đội ngũ cán bộ quân đội ta,
trong đó có đội ngũ cán bộ chính trị. Sự thật này không thể phủ nhận. Vấn đề
lợi ích, “cơm áo, gạo, tiền” bày đặt trước mắt nhiều người. Một cán bộ chính
trị nào đó không an tâm công tác cũng là do hoàn cảnh xô đẩy, họ sẽ được gì sau
nhiều năm phục vụ quân đội; trong khi đó, gia đình, người thân với nhiều mối
quan hệ khác nhau, có thể tìm kiếm, tạo cho họ một công ăn, việc làm ổn định,
có thu nhập cao, lại gần vợ con không bị gò bó trong “khuôn khổ doanh trại đơn
vị” với những điều kỷ luật sắt, rất nghiêm minh, thậm chí không sợ hy sinh đến
tính mạng trong thời bình. Chúng ta đã có nhiều cố gắng trong thực hiện các
chính sách hậu phương quân đội.
Tuy nhiên, cần đổi mới và quan tâm hơn nữa. Để
thật sự thu hút người tài giỏi thi vào các trường đại học quân đội hoặc thu hút
các cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ vào phục vụ quân đội lâu dài. Đảng, Nhà
nước, Quân đội phải có những chính sách đủ mạnh để giải quyết một cách căn cơ
vấn đề lợi ích, xứng đáng với lao động “đặc biệt” của quân đội. Đó là thực hiện
đúng Luật Sĩ quan, phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm ai cấp đẩt, cấp nhà,
giải quyết công ăn việc làm cho vợ, con gia đình sĩ quan và người thân của họ,
v.v.. Đó chính là điều cần hiểu và vận dụng sáng tạo Lời dạy của Bác vào điều
kiện, hoàn cảnh mới. Chẳng thể có một sự an tâm công tác hay tuyệt đối trung
thành với cách mạng khi mà bản thân những người thân của họ không tạo những
điều kiện cần thiết để cán bộ, sĩ quan thực thi một cách tốt nhất chức trách,
nhiệm vụ của mình. Họ cũng là một con người, cũng có gia đình, tổ ấm, có bố mẹ,
vợ con, người thân như bao nhiêu người khác; cũng chịu áp lực của sự phân hóa
giàu nghèo ngoài xã hội, sự phân tâm bởi vợ ốm, con hư, bố mẹ già yếu không
được chăm sóc chu đáo. Vậy thì làm sao họ thật sự “hăng hái, tâm huyết” với
công việc của mình khi điều kiện không cho phép. Hơn ai hết cán bộ chính trị
phải làm công tác chính trị ngay đối với gia đình, vợ con họ và làm tốt điều
này thì họ mới an tâm, đem hết tài năng, tâm huyết xây dựng đơn vị vững mạnh
toàn diện. Quan điểm chọn người đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan, cán bộ chính trị
của chúng ta hiện nay phải gắn với việc đổi mới các chính sách xã hội đối với
quân đội, nhất là chính sách hậu phương quân đội. Chúng ta là những người duy
vật biện chứng, chúng ta thấu hiểu mọi điều và mong muốn làm tốt hơn công tác tạo
nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính trị. Điều
đó là hết sức cần thiết nhưng không thể nóng vội, cũng không thể ngồi chờ, hoặc
dậm chân tại chỗ. Cùng với Đảng, Nhà nước, mỗi cơ quan, đơn vị cần phát huy
tính năng động, sáng tạo, hãy chủ động làm tốt câu châm ngôn mà đồng chí N.V.L
đã từng viết: “Hãy tực ứu lấy mình”. Chúng ta đã đánh thắng 2 đế quốc to là
Pháp và Mỹ cũng là nhờ trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam. Giờ đây, chiến thắng “giặc đói
nghèo”, chúng ta cần phát huy tinh thần quyết chiến quyết thắng trong kháng
chiến chống Pháp. Lời chỉ bảo của Bác về lựa chọn cán bộ - người “đúng mũi chịu
sào” đưa con thuyền cách mạng Việt Nam tiến lên phía trước nên làm theo phương
pháp Hồ Chí Minh thể hiện trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền
Giải phóng quân. /.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét