Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014

CHỈ THỊ THÀNH LẬP ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN - BẰNG CHỨNG BÁC BỎ QUAN ĐIỂM “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN ĐỘI



Cách chọn cán bộ của Bác Hồ để thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân
Tại điểm 1 của Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Bác viết: “sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực”. Vì sao Bác lại khẳng định phải chọn số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất trong hàng ngũ những người du kích Cao - Bắc - Lạng để thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân mà không chọn cán bộ, đội viên ở các địa phương khác? Bởi vì, giữa năm 1944, Mặt trận Việt Minh phát triển mạnh ở vùng Cao - Bắc - Lạng. Tại đây, chúng ta đã có những đội du kích vũ trang, được huấn luyện quân sự và sinh hoạt nền nếp nhưng hoạt động tuyên truyền chính trị của cán bộ Việt Minh vẫn chưa hoàn toàn kết hợp được với hoạt động vũ trang. Cả hai hoạt động này, có lúc còn mang nặng tính tự phát, mạnh nơi nào thì nơi ấy làm, thậm chí hoạt động quân sự và chính trị, giữa đội vũ trang này với đội vũ trang khác có nơi, có lúc tách rời nhau; thiếu sự chỉ lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, nên nó chưa phát huy tốt tác dụng, hiệu quả trong gây dựng cơ sở, làm “hạt giống”, phát triển phong trào cách mạng để nó lan rộng và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các địa phương khác ở trung du và đồng bằng, nhất là thu hút, lôi cuốn đồng bào ta đang sống trong vùng kiểm soát của người Pháp, dù đó chỉ là sự kiểm soát hình thức, lỏng lẻo, đứng về phía cách mạng, ủng hộ Mặt trận Việt Minh chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong bối cảnh đó, Bác Hồ nhận thấy nếu chỉ chăm lo xây dựng các đội vũ trang, tập trung vào huấn luyện quân sự mà coi nhẹ công tác tuyên truyền chính trị, vận động quần chúng thì cách mạng sẽ khó thành công, thắng lợi trở nên xa vời. Vì vậy, Bác đã bàn với trung ương và ra chỉ thị về việc thành lập một đội quân chủ lực, nhân sự nòng cốt lấy từ các cán bộ chính trị, đội viên du kích kiên quyết, hăng hái nhất, cách mạng nhất ở vùng Cao - Bắc - Lạng, làm nhân cốt thúc đẩy mạnh mẽ việc gây dựng, phát triển phong trào cách mạng trong quần chúng nhân dân để nó lan rộng, ảnh hưởng đến mọi miền của đất nước.
Tiêu chuẩn chọn lựa cán bộ, du kích để thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, theo Bác, cần nhấn mạnh hai điểm; trước hết, phải chọn lựa được những cán bộ, du kích  “kiên quyết nhất”, tức là những người có tác phong quân sự mạnh mẽ, quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; biết nắm bắt và xử lý linh hoạt, uyển chuyển nhưng mau lẹ, dứt khoát, có hiệu quả mọi tình huống mới nảy sinh, miễn là biết lấy “bất biến để ứng vạn biến”, thực hiện tốt phương châm “được người, được việc, được quan hệ”. Có làm được như vậy, cách mạng mới có lợi; đường lối, chủ trương, phương châm lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của Mặt trận mới trở thành hiện thực. Điều đó, đối lập với tác phong, phong cách làm việc cầm chừng, do dự, chần chừ, thiếu quyết đoán, lúc “thuận buồn xuôi gió thì tung hô”, lúc cách mạng gặp hiểm nguy, thử thách thì thoái thác hoặc ngại khó, ngại khổ, sợ trách nhiệm, để tuột mất thời cơ, gây hại cho cách mạng, thậm chí có thể gây đổ máu, hy sinh tính mạng của đồng chí, đồng đội và nhân dân.
Thứ hai, cùng với việc chọn lọc những cán bộ, du kích “kiên quyết nhất”, Bác đồng thời chỉ rõ: phải chọn những cán bộ, du kích “hăng hái nhất”, tức là những người tâm huyết, nhiệt tình cách mạng, luôn có chí tiến thủ, tinh thần tiến công, xung kích đi đầu, không sợ khó khăn, gian khổ, không sợ hiểm nguy; sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống. Điều đó trái ngược với những cán bộ “thứ nhất ngồi ỳ, thứ nhì đồng ý, thứ ba ra về”, “dễ làm, khó bỏ”. Dụng ý của Bác trong tuyển chọn cán bộ, đội viên du kích ở Cao - Bắc - Lạng để thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân là mong muốn xây dựng cơ sở, nền móng vững chắc tại căn cứ địa Việt Bắc, để từ đó, từng bước thử nghiệm, đúc rút kinh nghiệm xây dựng một đội quân chủ lực của cách mạng. Đội này có thể đi từ Nam ra Bắc, khắp mọi miền đất nước, có thể giúp các đội đàn em nhanh chóng phát triển, lớn mạnh, trưởng thành. Muốn được như vậy, bước đầu phải hướng vào giải quyết khâu trọng yếu nhất, đang vướng nhất là tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho quảng đại quần chúng nhân dân, giúp họ hiểu biết, tin tưởng, một lòng đi theo và ủng hộ cách mạng. Trong điều kiện, hoàn cảnh ấy, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân cần tập trung thực hiện tốt phương châm: “chính trị trọng hơn quân sự”, “tuyên truyền trọng hơn tác chiến”. Bởi lẽ, “chính trị là “cái gốc” của quân sự. Chính trị thể hiện rõ trong đánh giặc. Cho nên, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân phảimột tổ chức quân sự kiểu mới, mang bản chất của giai cấp công nhân, tính nhân và tính dân tộc sâu sắc và chính nó sẽ là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này, đúng như Bác khẳng định: “Nó là khởi điểm đầu của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Bắc chí Nam, khắp đất nước”, có nhiệm vụ dìu dắt, giúp đỡ các đội vũ trang của địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội vũ trang của địa phương ngày càng lớn mạnh, trưởng thành. Sứ mệnh của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân là rất lớn; trách nhiệm của mỗi cán bộ, đội viên là hết sức nặng nề nhưng vô cùng vẻ vang. Họ vừa là người cầm súng, vừa cầm bút viết nên trang lịch sử mới của nước Việt Nam độc lập.
Vì vậy, trong một tổ chức quân sự đặc biệt ấy tất yếu cần phải có những con người đặc biệt để thực hiện những công việc đặc biệt quan trọng mà Đảng và Mặt trận Việt Minh tin tưởng giao phó, nhân dân ủy thác. Việc “chọn mặt gửi vàng” của Bác, của Trung ương và Mặt trật Việt Minh không thể là ai khác mà phải là những người ưu tú nhất của các đội du kích Cao - Bắc - Lạng, những chiến sĩ cách mạng đã được chọn lọc, huấn luyện quân sự, chính trị kỹ lưỡng, dân vận khéo, sức khỏe tốt; tuyệt đối trung thành với mục đích, lý tưởng của Đảng; nắm vững đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, của Mặt trận Việt Minh; có khả năng diễn thuyết, giáo dục, thuyết phục mọi người để gây lòng tin cậy trong nhân dân, để nhân dân tin tưởng, yêu quý Bộ đội Cụ Hồ và một lòng đi theo, phục vụ cách mạng; đồng thời, những cán bộ, du kích được chọn lựa tham gia Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân phải là những người gắn bó máu thịt với nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; gương mẫu đi đầu, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Hơn ai hết, họ phải là những người địa phương, có hiểu biết sâu sắc phong tục, tập quán, đặc điểm tâm lý - xã hội; am tường tình hình địch, ta, thông thạo địa hình, đường sá, dòng sông, con suối; thời tiết, khí hậu; có sức khỏe và sức chịu đựng bền bỉ, dẻo dai, khó khăn, gian khổ không lùi bước; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và dám hy sinh vì cách mạng. Điều này thể hiện một cách cô đọng, sâu sắc trong Mười lời thề danh dự và Mười hai điều kỷ luật của đội viên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.
Nói một cách khác, ở họ phải hội tụ đầy đủ những phẩm chất và năng lực mà người đội viên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân cần phải có để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng hết sức nặng nề nhưng vô cùng vẻ vang mà Đảng và Bác Hồ tin tưởng giao phó. Chính vì mục đích này, ngay từ đầu Chỉ thị, Bác đã viết: “Tên: Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền”, đội quân đi gây dựng, phát triển phong trào cách mạng không chỉ ở chiến khu Việt Bắc mà rộng khắp cả nước, gánh vác trọng trách khai phá, mở đường, làm nòng cốt xây dựng đội quân chủ lực của các lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, cùng toàn dân đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành lại cơm no, áo ấm, độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phức cho đồng bào. Nói đúng nghĩa, đó là “đội cứu nguy cho dân tộc”. Chính vì vậy, ở cuối Chỉ thị Bác khẳng định: “Tuy lúc đầu, quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang”.
Kết quả và giá trị, ý nghĩa của cách chọn lựa nhân sự của Bác Hồ
Ngày 22 tháng 12 năm 1944 đã đi vào lịch sử Quân đội ta, dân tộc ta như một mốc son chói lọi: Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã chính thức ra đời tại khu rừng nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám (nay thuộc tỉnh Cao Bằng) với 34 chiến sĩ, được chia thành 3 tiểu đội. Đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy chung; đồng chí Hoàng Sâm được chọn làm đội trưởng; đồng chí Xích Thắng, tức Dương Mạc Thạch, làm chính trị viên, đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách tình báo và kế hoạch tác chiến; đồng chí Lâm Cẩm Như, tức Lâm Kính, phụ trách công tác chính trị; đồng chí Lộc Văn Lùng tức Văn Tiên làm quản lý. Vũ khí ban đầu có 2 súng thập (súng ngắn 10 viên), 17 súng trường, 14 súng kíp.
Sau khi thành lập, Đội đã đánh thắng hai trận đầu tiên ở Phai Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng). Sau 2 trận đánh mở đầu, Đội đã họp rút kinh nghiệm và tập trung vào công tác tuyển thêm quân, củng cố lực lượng, học tập chính trị, huấn luyện chiến đấu và giúp dân xây dựng phong trào cách mạng tại các địa phương. Chỉ sau đó ít lâu, quân số của Đội tăng lên rất nhanh. Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã xin ý kiến của Bác và Mặt trận Việt Minh. Theo đó, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã được phép nâng cấp, xây dựng thành đại đội. Đồng chí Hoàng Sâm làm đại đội trưởng, đồng chí Xích Thắng làm chính trị viên. Phạm vi hoạt động của Đội không ngừng mở rộng, đã lan ra khắp các huyện Hòa An, Nguyên Bình (Cao Bằng), Ngân Sơn, Chợ Rã (Bắc Kạn), Na Rì (Bắc Kạn), Chiêm Hóa (Tuyên Quang), Thất Khê, Bình Gia (Lạng Sơn) ...
Cuối tháng 3, đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã gặp Cứu quốc quân ở Chợ Chu (Thái Nguyên). Ngày 15 tháng 5 năm 1945, tại Chợ Chu, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân hợp nhất với Cứu quốc quân và một số đơn vị du kích thành lực lượng quân sự thống nhất, lấy tên là Việt Nam Giải phóng quân. Từ đây, quân đội ta không ngừng phát triển, tăng nhanh về số lượng, đảm bảo chất lượng, cơ cấu, thành phần ngày càng hợp lý; nhờ đó, đã có những đóng góp đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của cách mạng Việt Nam, cùng toàn Đảng, toàn dân làm nên cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và Đại thắng mùa Xuân 1975, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Điều đó khẳng định rõ việc ra đời của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân là một đường lối đúng, một chủ trương đúng, một chính sách đúng của Đảng ta và Bác Hồ kính yêu; nó là một trong những nhân tố mang ý nghĩa quyết định liên quan đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng; là bài học mang ý nghĩa giáo dục chịnh trị tư tưởng sâu sắc đối với công tác đảng, công tác chính trị, đặc biệt là công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của quân đội nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị của quân đội ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay nói riêng. Không thể nói rằng, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị ngày nay rất tốt nếu không xem lại cách chọn lựa nhân sự, nhất là đội ngũ chính ủy, chính trị viên của chúng ta theo tiêu chí chọn lựa cán bộ, đội viên du kích của Bác Hồ đã nêu trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân các đây tròn 70 năm. Không thể xây dựng thành công đội ngũ cán bộ chính trị ngày nay nếu không nghiên cứu kỹ cách chọn lựa người, cách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Bác, từ đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đại tướng Nguyễn Chí Thanh đến đội ngũ cán bộ cao cấp của quân đội ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Học tập và làm theo lời ở Bác dặn để xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị hiện nay
Trước hết, muốn xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị vững mạnh, thật sự “vừa hồng vừa chuyên” trong bối cảnh tình hình phức tạp hiện nay, làm cơ sở để xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, thiết nghĩ mỗi cán bộ chính trị, nhất là các đồng chí chính ủy, chính trị viên - người chủ chỉ về chính trị ở đơn vị cơ sở cần nhận thức sâu sắc và nêu tấm gương mẫu mực trong thực hiện những lời căn dặn của Bác đối với cán bộ và chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân: "Phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, kỹ thuật và văn hoá, ra sức công tác và lao động, tăng cường sản xuất, thực hành tiết kiệm, góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội; Phải trau dồi đạo đức cách mạng, đoàn kết, khiêm tốn, hết lòng vì Đảng, vì nhân dân; Phải nâng cao chí khí chiến đấu, luôn luôn sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình".
Trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào cũng vậy, người cán bộ chính trị cũng  "Không được tự mãn, không được tự kiêu. Trái lại, cần phải khiêm tốn, cần phải đoàn kết, cần phải ra sức thi đua học tập, học tập về chính trị, học tập văn hoá, học tập kỹ thuật"; phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của nhân dân; thực hiện đúng những điều dặn dò của Bác: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì Chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Có thực hiện tốt những điều căn dặn của Bác trong điều kiện hiện nay thì Quân đội ta mới thật sự có sức mạnh, chúng ta mới hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Nguồn gốc của sức mạnh ấy, theo Bác, là do cán bộ ta gương mẫu, chiến sĩ ta đoàn kết, quân dân nhất trí đồng lòng, xã hội ta có sự đồng thuận cao. Làm, được như vậy thì không có khó khăn nào ngăn đường, cản lối chúng ta tiến lên phía trước. Kể từ khi ban hành Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân cho đến khi từ giã cõi đời này, lúc nào Bác cũng dành tình cảm sâu sắc nhất cho cán bộ, chiến sĩ quân đội ta. Người luôn luôn căn dặn cán bộ chính trị phải yêu thương chiến sĩ như “người anh, người chị hiền”, như anh em ruột thịt, hết lòng hết sức chăm lo cho họ, cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng lo, cùng vui với chiến sĩ thì nhất định chiến sĩ sẽ tôn kính, tin tưởng, làm theo; nhiều việc tốt theo đó sẽ sinh sôi, nảy nở, đơm hoa, kết trái. Vì vậy, càng khó khăn, càng gian khổ thì cán bộ chính trị càng phải gắn bó, gần gũi anh em, chiến sĩ, “chia sẻ” với họ, lúc buồn cũng như lúc vui. Đồng thời, tự bản thân mỗi cán bộ chính trị, nhất là chính ủy, chính trị viên phải khiêm tốn, cố gắng hơn nữa, phải học tập nhân dân, chiến sĩ để tiến bộ không ngừng; đồng thời phải nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi hành động và âm mưu chống phá của mọi kẻ thù.
Điều thứ hai, tôi muốn được bàn ở hội thảo này là, nghiên cứu thật kỹ cách chọn lựa cán bộ của Bác để vận dụng sáng tạo vào công tác tuyển chọn nguồn đào tạo, bồi dưỡng cán cán bộ chính trị hiện nay. Chúng ta cần nghiêm túc nhìn nhận lại những việc chúng ta đã làm, tự mỗi người có thể trả lời được câu hỏi: Chúng ta đã lựa chọn đúng những người ưu tú nhất, “kiên quyết và hăng hái nhất” trong thanh niên hiện nay để đào tạo cán bộ chính trị hay chưa? Phải chăng vì cần có công ăn, việc làm, không phải đóng học phí, được quân đội nuôi dưỡng mà nhiều thanh niên làm đơn xin thi tuyển vào Trường Sĩ quan Chính trị và một số trường đại học khác của quân đội? Trong thành phần học viên đã tốt nghiệp và hiện nay có bao nhiêu phần trăm con em cán bộ cao cấp, làm việc ở các cơ quan Trung ương từ cấp vụ trưởng, vụ phó trở lên tự nguyện theo học ở các Nhà trường quân đội để trở thành sĩ quan, phục vụ quân đội lâu dài hay phần lớn chỉ là con em nông dân và một số ít con em sĩ quan quân đội do ít có cơ hội đi học bên ngoài mới đi học trong quân đội? Chúng ta sẽ thấy rõ hơn điều này qua số lượng các học viên thi vào các Nhà trường quân đội, học văn bằng hai, để trở thành sĩ quan quân đội do sau khi tốt nghiệp nhiều năm không xin được việc làm và nhìn xa hơn, khảo cứu kết quả công tác, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của số cán bộ đào tạo theo hình thức này chúng ta không thể vui lòng, nếu không nói là đáng thất vọng. Chỉ một số ít trong họ là tâm huyết, nhiệt tình, có chí tiến thủ, thật sự an tâm công tác, phục vụ quân đội lâu dài, số còn lại, đã và đang hoạt động “cầm chừng”, thậm chí luôn so sánh thiệt hơn, ngại rèn luyện, không chịu được khó khăn, gian khổ, muốn xin về cơ quan quân sự địa phương hoặc tìm cơ hội xin ra quân.
Thời nay, kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa đã tác động khá sâu sắc đến đội ngũ cán bộ quân đội ta, trong đó có đội ngũ cán bộ chính trị. Sự thật này không thể phủ nhận. Vấn đề lợi ích, “cơm áo, gạo, tiền” bày đặt trước mắt nhiều người. Một cán bộ chính trị nào đó không an tâm công tác cũng là do hoàn cảnh xô đẩy, họ sẽ được gì sau nhiều năm phục vụ quân đội; trong khi đó, gia đình, người thân với nhiều mối quan hệ khác nhau, có thể tìm kiếm, tạo cho họ một công ăn, việc làm ổn định, có thu nhập cao, lại gần vợ con không bị gò bó trong “khuôn khổ doanh trại đơn vị” với những điều kỷ luật sắt, rất nghiêm minh, thậm chí không sợ hy sinh đến tính mạng trong thời bình. Chúng ta đã có nhiều cố gắng trong thực hiện các chính sách hậu phương quân đội.
Tuy nhiên, cần đổi mới và quan tâm hơn nữa. Để thật sự thu hút người tài giỏi thi vào các trường đại học quân đội hoặc thu hút các cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ vào phục vụ quân đội lâu dài. Đảng, Nhà nước, Quân đội phải có những chính sách đủ mạnh để giải quyết một cách căn cơ vấn đề lợi ích, xứng đáng với lao động “đặc biệt” của quân đội. Đó là thực hiện đúng Luật Sĩ quan, phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm ai cấp đẩt, cấp nhà, giải quyết công ăn việc làm cho vợ, con gia đình sĩ quan và người thân của họ, v.v.. Đó chính là điều cần hiểu và vận dụng sáng tạo Lời dạy của Bác vào điều kiện, hoàn cảnh mới. Chẳng thể có một sự an tâm công tác hay tuyệt đối trung thành với cách mạng khi mà bản thân những người thân của họ không tạo những điều kiện cần thiết để cán bộ, sĩ quan thực thi một cách tốt nhất chức trách, nhiệm vụ của mình. Họ cũng là một con người, cũng có gia đình, tổ ấm, có bố mẹ, vợ con, người thân như bao nhiêu người khác; cũng chịu áp lực của sự phân hóa giàu nghèo ngoài xã hội, sự phân tâm bởi vợ ốm, con hư, bố mẹ già yếu không được chăm sóc chu đáo. Vậy thì làm sao họ thật sự “hăng hái, tâm huyết” với công việc của mình khi điều kiện không cho phép. Hơn ai hết cán bộ chính trị phải làm công tác chính trị ngay đối với gia đình, vợ con họ và làm tốt điều này thì họ mới an tâm, đem hết tài năng, tâm huyết xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Quan điểm chọn người đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan, cán bộ chính trị của chúng ta hiện nay phải gắn với việc đổi mới các chính sách xã hội đối với quân đội, nhất là chính sách hậu phương quân đội. Chúng ta là những người duy vật biện chứng, chúng ta thấu hiểu mọi điều và mong muốn làm tốt hơn công tác tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính trị. Điều đó là hết sức cần thiết nhưng không thể nóng vội, cũng không thể ngồi chờ, hoặc dậm chân tại chỗ. Cùng với Đảng, Nhà nước, mỗi cơ quan, đơn vị cần phát huy tính năng động, sáng tạo, hãy chủ động làm tốt câu châm ngôn mà đồng chí N.V.L đã từng viết: “Hãy tực ứu lấy mình”. Chúng ta đã đánh thắng 2 đế quốc to là Pháp và Mỹ cũng là nhờ trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam. Giờ đây, chiến thắng “giặc đói nghèo”, chúng ta cần phát huy tinh thần quyết chiến quyết thắng trong kháng chiến chống Pháp. Lời chỉ bảo của Bác về lựa chọn cán bộ - người “đúng mũi chịu sào” đưa con thuyền cách mạng Việt Nam tiến lên phía trước nên làm theo phương pháp Hồ Chí Minh thể hiện trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. /.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét