Vin vào cái cớ nghị quyết Trung
ương 4, khóa XI của Đảng ta bàn về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng
hiện nay, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng một số người có quan điểm
bất đồng, thậm chí đối lập với Đảng, Nhà nước ta để xuyên tạc sự thật, thổi
phồng khuyết điểm, khuyếch đại thiếu sót, hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, Nhà nước ta, v.v.. Bản chất
của vấn đề là họ muốn phủ nhận thành quả cách mạng, phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng ta; xóa bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
lái nước ta đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa có lợi cho phương Tây. Ý đồ của họ
đã lộ diện, âm mưu, thủ đoạn của họ đã được công khai từ nhiều năm nay thông
qua thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, kết hợp với bạo loạn lật đổ. Giờ
đây, lợi dụng Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI của Đảng ta về một số vấn đề cấp
bách trong xây dựng Đảng hiện nay, các thế lực thù địch đã và đang rùm beng lên
rằng, “Đảng Cộng sản Việt Nam đã thú nhận sai lầm” để chống Đảng ta. Hãy bình
tĩnh nhìn nhận, xem xét mọi vấn đề và xem đây như một loại “giặc nội xâm” để
ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới khắc phục suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng ta trong sạch vững
mạnh, ngang tầm nhiệm vụ là một vấn đề rất quan trọng và cấp bách trong tình
hình hiện nay.
Suy thoái tư tưởng chính trị, về thực chất, là
sự phản ánh sai lệch hiện thực khách quan từ việc phai nhạt mục tiêu, lý
tưởng cách mạng, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối của Đảng, do tuyệt đối hóa cái chủ quan, làm cho con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, những cái tốt, ưu việt của chế
độ ta bị xuyên tạc trở thành méo mó, thực hư, thật giả, trắng đen lẫn lộn; bị
lợi dụng để thực hiện mục đích cá nhân theo kiểu “đục nước béo cò”; biến cái
tốt thành xấu. Vì thế, cái xấu có cơ hội nảy nở, lấn át cái tốt.
Suy thoái tư tưởng chính trị
không chỉ phản ánh sai lệch quan điểm, lập trường của người cộng sản mà còn
phản ánh sai lệch các chuẩn mực đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên;
do lương tâm, danh dự của họ đã bị lu mờ, hoen ố; tự thân, không thể nhận
thức, phân biệt rõ ràng phải trái, đúng sai; không thể điều chỉnh thái
độ, hành vi trong các quan hệ giao tiếp, ứng xử để đạt đến sự chuẩn mực
đạo đức vốn có của người cộng sản nên đã rơi vào lối sống buông thả, “quên
tình nghĩa, xa rời đạo lý”; đề cao vật chất, sùng bái đồng tiền;
nặng về hưởng lạc, ham chức, cậy quyền, đề cao “cái tôi”, coi thường
tổ chức, trà đạp lên tập thể...
Hiện tượng này tuy không phải
là phổ biến, chỉ rơi vào một số cán bộ, đảng viên nhưng lại gây hại
lớn cho xã hội; làm nhiều người tốt lo ngại, băn khoăn; thậm chí
khủng hoảng niềm tin vào chân lý; có nơi lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, nhất là đối với tổ chức đảng và chính quyền địa
phương bị giảm sút nghiệm trọng.
Vì thế cho nên, tuyển chọn cán
bộ, nhất là cán bộ ở vị trí quan trọng phải thật sự chú ý đến bản lĩnh
chính trị, lập trường, quan điểm giai cấp, quá trình rèn luyện, phấn
đấu và trưởng thành của các nhân sự. Kiên quyết không thể chấp nhận ai đó
mà bản lĩnh chính trị non kém; sự tu dưỡng, rèn luyện, ý thức chấp hành
kỷ luật không nghiêm vào các vị trí chủ chốt, nhất là ở những nơi
mà điều kiện, hoàn cảnh dễ làm họ rơi vào suy thoái hóa tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống do sự lôi cuốn, cám dỗ của vật chất, sự mua
chuộc của đồng tiền, sự hấp dẫn của chức quyền, sự đam mê của tửu sắc, sự tung
hê, bợ đỡ của xã hội đen, v.v..
Suy thoái tư tưởng chính trị là
một loại bệnh “nan y” nhưng không phải là vô phương, hết cách cứu chữa.
“Cơ địa” chung của những người mắc bệnh này là ý thức trách nhiệm
thấp, bản lĩnh chính trị non kém; tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức
nhân cách người cách mạng không vững vàng nên không đủ sức cự tuyệt những cám
dỗ vật chất, ham muốn đời thường, thiếu trung thực với tổ chức, song lại
biết che đậy kín đáo trước các hành vi bất chính, bất lương. Khi cái
lợi đến quá dễ dàng, lâu dần thành thói quen biến thành một sự
sùng bái quyền lực, đồng tiền và sự hưởng lạc; đến lúc đó, họ
không còn biết tự trọng danh dự, không còn hổ thẹn, cắn dứt lương tâm khi làm
điều sai trái; những điều thất đức, phi nhân tính; họ cứ trượt dài, dần dần
mất nhân cách người cách mạng. Vì vậy, pháp luật cần phải vào cuộc
mạnh mẽ hơn nữa để chẩn trị, cắt bỏ các chứng bệnh này, làm cho
xã hội ta lành mạnh hơn, tốt đẹp hơn.
Cũng cần nói rằng, sự lệch lạc
trong suy nghĩ, thoái hóa về tư tưởng chính trị thể hiện rõ ở việc phai
nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, buông lỏng nguyên tắc sinh hoạt Đảng, nói và làm sai
nghị quyết, Điều lệ của Đảng là cái gốc đẻ ra các chứng bệnh: phát ngôn
thiếu trách nhiệm, thực hiện pháp luật, kỷ luật không nghiêm; quan
liêu, gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền; áp đặt quan điểm chủ quan, duy
ý chí, phiến diện, siêu hình trong quan hệ đạo đức, lối sống nên các hành
vi, biểu hiện của nó hết sức phức tạp. Nó vừa là hệ quả, sản phẩm tất yếu do
non kém cái này, vừa là nguyên nhân sinh ra cái kia và ngược lại. Sống, sinh
họat trong một tổ chức tốt, một người có tư tưởng chính trị lành mạnh,
đúng đắn thì họ luôn kiên định, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách, không
bao giờ làm những điều sai trái. Mọi cám dỗ, mua chuộc không thể chuyển
lay, không vì lợi ích cá nhân mà hy sinh lợi ích tập thể và do đó có cuộc sống
trong sạch, lành mạnh, luôn ngẩng cao đầu đúng với tư cách một con người, là
một cán bộ, đảng viên nêu tấm gương sáng để mọi người học tập, noi theo.
Rõ ràng là, tư tưởng chỉ đạo hành
động. Tư tưởng đúng thì hành động đúng, tư tưởng sai thì hành động sai, “sai
một ly là đi một dặm” và nó có thể giết chết một con người, để lại tác hại khôn
lường, những hậu quả khó khắc phục cho tập thể, tổ chức và xã hội. Có thể
khẳng định rằng, sự suy thoái về tư tưởng chính trị là nguyên nhân của mọi
nguyên nhân dẫn đến sai lầm, suy thoái về đạo đức, lối sống và ngược lại. Cho
nên, muốn không bị suy thoái tư tưởng chính trị dẫn đến các loại suy thoái khác
thì chính trị của ta phải mạnh lên, đạo đức, lối sống của chúng ta phải
thật sự trong sạch lành mạnh. Một vấn đề có tính nguyên tắc (bất di bất dịch)
là phải quan tâm chăm lo công tác giáo dục chính trị tư tưởng; ra sức xây dựng
môi trường văn hóa chính trị lành mạnh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước chiếm vị trí thống trị
trong đời sống văn hóa - tinh thần xã hội ta. Đồng thời, phải làm tốt hơn nữa
công tác kiểm tra, giám sát, giáo dục cán bộ, đảng viên; kiên quyết xử lý
nghiêm minh những người vi phạm pháp luật, kịp thời đưa những cán bộ, đảng
viên không đủ tư cách ra khỏi tổ chức đảng; làm cho Đảng ta ngày càng trong
sạch, lành mạnh; kiên quyết không để các thế lực thù địch lợi dụng tình hình,
thổi phồng, bóp méo sự thật, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang
xây dựng; hạ thấp vai trò, uy tín của Đảng, Nhà nước ta.
Suy thoái tư tưởng chính trị là
một căn bệnh có nguồn gốc từ sự khinh thường vai trò của công tác chính trị,
môi trường chính trị, nhất là giáo dục tư tưởng chính trị. Phải khẳng định
rằng, ở đâu, nơi nào, môi trường chính trị không tốt, trước hết là cấp ủy,
người chỉ huy ở đó đã để tuột hoặc buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát,
chất lượng sinh họat tổ đảng, sinh hoạt chi bộ và sinh hoạt của các tổ
chức quần chúng thấp; đấu tranh tự phê bình và phê bình bị coi nhẹ hoặc
bị thủ tiêu, vấn đề dân chủ, công khai, minh bạch kém hiệu quả; người đứng đầu
thiếu tinh thần trách nhiệm, v.v., thì ở nơi đó, có nhiều người vi phạm kỷ
luật, thậm chí lâm vào tình trạng thoái hóa về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống. Sự thoái hóa tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
giống như một căn bệnh lây lan nếu không sớm phát hiện và chữa trị kip
thời. Mọi biểu hiện của lối sống vụ lợi, thực dụng, thói hư, tật xấu, hành vi
vi phạm chuẩn mực đạo đức là hệ quả tất yếu của sự suy đồi tư tưởng chính trị
của một tập thể, nhóm người và cá nhân mỗi người; trước hết là người đứng đầu
tổ chức đảng, người chủ trì đơn vị.
Cho nên, ngăn chặn, đẩy lùi, tiến
tới cắt bỏ căn bệnh này phải đồng thời khắc phục cả suy thoái tư tưởng chính
trị, suy thoái đạo đức và suy thoái lối sống; đồng thời, đẩy mạnh công tác đấu
tranh tư tưởng, lý luận, phê phán các quan điểm sai trái, phản động; khôi phục
niềm tin trong nhân dân. Không thể có đạo đức, lối sống tốt nếu ai đó bị suy thoái
về tư tưởng chính trị. Không thể có tư tưởng chính trị tốt nếu vi phạm chuẩn
mực đạo đức, lối sống và “sự lệch chuẩn” của nó đã rơi vào đồi bại, tha hóa.
Vấn đề quan trọng hàng đầu là đề cao công tác phòng ngừa; có niềm tin trong
đấu tranh chống tiêu cực, chống quan điểm sai trái; không nên để “bệnh tật”
xảy ra rồi mới tìm thầy thuốc bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc, tìm cách cứu chữa.
Trong bối cảnh tình hình hiện
nay, từng tổ chức đảng cần có những giải pháp giúp đỡ một số cán bộ,
đảng viên sửa chữa sai lầm, khuyết điểm do “bị thương” bởi “viên đạn bọc
đường”, bị mua chuộc bởi bọn làm ăn phi pháp lợi dụng; có lúc đã trở
thành tù nhân, nô lệ của đồng tiền, trở lại đội ngũ. Công việc này có
giá trị rất tốt là khi các đồng chí ấy quay về đội ngũ sẽ là nhân
cốt tích cực trong cuộc đấu tranh chống quan điểm sai trái, phản động;
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng trưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong tổ chức đảng và trong xã hội ta hiện
nay.
Mối quan hệ giữa suy thoái tư tưởng chính trị,
suy thoái đạo đức và suy thoái lối sống là mối quan hệ giữa “kẻ tung người
hứng”, a dua tòng phạm, cùng nhau đi đến một chỗ sai là phá bỏ chế độ, nền nếp,
trật tự, kỷ cương; dũ bỏ luân thường đạo lý, vi phạm kỷ luật, làm sai luật
pháp; gây tiêu cực cho xã hội, cản trở tiến bộ lịch sử. Cho nên, cần hiểu rằng,
suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một cơ thể mang mầm bệnh
ghép gồm ba chứng bệnh: suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức,
suy thoái về lối sống; cả ba căn bệnh ấy đều bám nhau, dính chặt trên một cơ
thể người bị “lệch chuẩn”; rất khó phân biệt một cách rạch ròi bản chất, nguyên
nhân của từng loại bệnh. Ai đó chỉ cần mắc một chứng bệnh là lập tức bị lây
nhiễm, mắc các chứng bệnh khác ngay lập tức. Đương nhiên, ổ bệnh gây mầm vẫn là
suy thoái về tư tưởng chính trị xét một cách toàn cục mà nói. Tuy nhiên, sự
phát bệnh và biểu hiện rõ nhất, dễ nhìn thấy nhất có khi lại bắt đầu từ
các hành vi thoái hóa đạo đức, lối sống thông qua các hành động “lệch
chuẩn” của nó.
Suy thoái tư tưởng chính trị là
dấu hiệu đầu tiên dẫn đến và quy định nguồn gốc, bản chất, tính chất, hình thức
biểu hiện của suy thoái về đạo đức, lối sống. Nếu sự suy thoái về tư tưởng
chính trị được loại bỏ hoặc mất đi thì sớm hay muộn, suy thoái về phẩm chất
đạo đức, nhân cách và lối sống, theo đó cũng sẽ mất theo. Ngược lại, là những
hình thức nảy sinh do suy thoái tư tưởng chính trị gây nên nhưng sự suy thoái
về đạo đức, lối sống có tính độc lập tương đối. Nó ngấm ngầm hay công khai biểu
hiện theo những con đường, cách thức riêng. Trường họp này, công tác tuyên
truyền, giáo dục không thể phát huy công dụng, hiệu quả, chỉ đến khi
luật pháp vạch mặt, sai trái ấy ở một số người mới bị phơi bày, buộc phải
thừa nhận.
Để phòng, chống suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; cán bộ, đảng viên cần đặc biệt quan tâm và
làm tốt hơn công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng. Sinh thời, Bác Hồ luôn
luôn căn dặn chúng ta điều này, Người rất coi trọng tự phê bình và phê bình
trong Đảng. Tư tưởng của Bác về tự phê bình và phê bình là một trong những nội
dụng cơ bản, có đóng góp quan trọng trong bảo vệ và phát triển lý luận Mác -
Lênin; là nét đặc sắc trong tư tưởng của Người về xây dựng Đảng mácxít -
lêninnít, là vũ khí lý luận sắc bén để đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét
lại và các tiêu cực xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiên cứu, nắm vững và
thực hiện nghiêm túc, thiết thực, hiệu quả.
Trong tác phẩm “Đường
Kách mệnh” viết năm 1927, lần đầu tiên, Bác Hồ yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên,
không kể chức vụ, cấp bậc; không phân biệt người tuổi cao hay còn trẻ tuổi, đều
phải tự nhận thức, tự đánh giá, hiểu đúng mạnh yếu của bản thân mình, từ đó mà
“cả quyết sửa lỗi của mình…có lòng bày vẽ cho người…hay xem xét người”1.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm
việc”, Bác quan niệm: “Phê bình là nêu yêu điểm và vạch khuyết điểm của đồng
chí mình. Tự phê bình là nêu yêu điểm và vạch khuyết điểm của mình. Tự phê bình
và phê bình phải đi đôi với nhau. Mục đích là cho mọi người học lẫn nhau và
giúp nhau sửa chữa khuyết điểm”1. Theo Bác, tự phê bình phải đi đôi với
phê bình. Hai mặt này phải kết hợp chặt chẽ, thống nhất với nhau, không thể
tách rời nhau; không nên thiên vị, khuyếch đại một mặt nào. Trong mối quan hệ
biện chứng này, tự phê bình được coi là tiền đề, là cơ sở cho phê bình. Người
nói: “trước ta nói phê bình và tự phê bình, bây giờ phải nói tự phê bình và phê
bình. Nói như thế là chú trọng phê bình mình trước, phê bình người sau”2.
Bác căn dặn: “Nói cái xấu phải
nói cả cái tốt. Nếu chỉ chuyên nói cái xấu là lệch”3. Do vậy, xem
xét, đánh giá sự vật, hiện tượng, nhất là đánh giá con người phải đặc biệt thận
trọng. Mục đích của tự phê bình và phê bình là để tổ chức đảng trong sạch vững
mạnh hơn, mỗi người tốt hơn, sau khi được phê bình, tình đồng chí đồng đội tốt
hơn, đoàn kết chặt chẽ hơn. Cho nên tự phê bình và phê bình đúng mực, chỉ ra
được mặt ưu điểm và cả mặt khuyết điểm, các mặt ấy “có lý có tình”, phù hợp với
thực tiễn cuộc sống và tâm lý con người; làm cho người ta “tâm phục khẩu phục”,
thấy ưu điểm là đúng, vui vẻ hơn, phán chấn hơn, làm việc tốt hơn; đồng thời,
thấy khuyết điểm cũng là đúng nên cũng vui vẻ, thoải mái nghe, tiếp thu, sửa
chữa khuyết điểm để tiến bộ. Không nên dùng tự phê bình và phê bình để phê
phán, chỉ trích, miệt thị nhau; làm cho người ta “mất mặt”, làm nhục tinh thần,
thể xác con người theo nghĩa “vùi dập nhau”, “triệt hạ nhau”. Theo Bác, khi tự
phê bình và phê bình “phải vạch cả ưu điểm và khuyết điểm…phê bình việc làm chứ
không phải phê bình người”4. Trong
mọi lúc, cái tâm của người phê bình phải sáng, cái đức phải cao; tự phê bình và
phê bình sẽ kém hiệu quả nếu thiếu cái tâm, cái đức hoặc cái tâm, cái đức không
trong, không sáng; lờ mờ.
Trong hoạt động thực
tiễn, người cộng sản dứt khoát không được che đậy, giấu giếm khuyết điểm mà cần
công khai phê bình khuyết điểm. Bác viết: “luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê
bình và tự phê bình thì khuyết điểm hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng
ta nhất định thắng lợi”1. Bác cho rằng, “Một Đảng mà giấu giếm
khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm
của mình, vạch rõ những cái đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi
tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn,
chắc chắn, chân chính”2.
Đối với Đảng, đối với mỗi
cán bộ, đảng viên, tự phê bình và phê bình là “liều thuốc quý”, có tác dụng
chữa và cắt được bệnh, đồng thời, bồi bổ, làm người ta phấn chấn, tăng thêm sức
khỏe” để phục vụ cách mạng, phụng sự nhân dân. Vì lẽ đó, tự phê bình và phê
bình cần cho tất cả mọi người ví như họ cần không khí để thở, nước để uống, để
rửa mặt, làm vệ sinh hàng ngày. Bản chất tự phê bình và phê bình là giải quyết
mâu thuẫn nội bộ Đảng, củng cố mối quan hệ đoàn kết, thống nhất trong nhân dân,
làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, đủ sức chèo lái con thuyền cách mạng, đưa nó
đi đến bến bờ thành công. Tự phê bình và phê bình đã được ghi thành chế độ, quy
định chặt chẽ trong Điều lệ Đảng, đảm bảo tính pháp lý để mọi tổ chức đảng, mọi
cán bộ, đảng viên, bất kể là ai, đều phải chấp hành tự phê bình và phê bình
nghiêm túc.
Xa rời tự phê bình và phê
bình là xa rời bản chất Đảng, là nguy cơ gây ra tình trạng trì trệ, bảo thủ, là
chỗ dựa vững chắc của sự tồn tại những khuyết điểm, sai lầm, yếu kém, của sự
chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ Đảng, tạo kẻ hở để những kẻ xu nịnh, thoái
hoá, biến chất tồn tại; bọn cơ hội, xét lại chui vào Đảng, thậm chí, thao túng,
lũng đoạn, làm cho Đảng biến chất, thoái hoá, mất sức chiến đấu. Vì vậy, tự phê
bình và phê bình vừa là hành động cách mạng vừa là một nghệ thuật vừa mang tính
khoa học cao. Việc phê bình, xem xét, đánh giá, chỉ rõ đúng sai nhất thiết phải
bảo đảm tính trung thực, khách quan và công khai; phải phân tích kỹ lưỡng điều
kiện, hoàn cảnh, nguyên nhân khách quan, chủ quan tạo nên ưu điểm, dẫn đến
khuyết điểm; tức là “nói có sách, mách có chứng”; có như vậy, ý kiến đống góp,
phê bình mới chính xác, có sức thuyết phục cao. Theo Bác, “khéo” sử dụng “vũ khí”
tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng có nghĩa là biết dùng nghệ thuật
để quan hệ, ứng xử sao cho thấu lý, đạt tình, công việc chung, riêng đều tốt,
đạt hiệu quả.
Vì vậy, phải kiên quyết hơn nữa
trong triển khai thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt
Đảng; kiên quyết đấu tranh, xử lý kỷ luật những cán bộ, đảng viên
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; không để những
cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong tổ chức Đảng “con sâu làm rầu nồi canh”. Đồng
thời, đẩy mạnh hơn nữa việc tiếp tục học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh; xây dựng hệ thống pháp luật, các chế độ, quy
định thật cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ để ngăn ngừa, đẩy lùi tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; làm tốt
công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ; chọn đúng
người có đức, có tài bố trí vào các vị trí quan trọng, nhất là các
vị trí chủ trì cơ quan, đơn vị. Đổi mới cơ chế, chính sách, chế độ đãi
ngộ để cán bộ, đảng viên có đủ điều kiện “bảo liêm”, làm tốt việc
nêu gương cho quần chúng học tập, noi theo. Chân lý là khách quan và luôn
luôn cụ thể. Hãy lấy thực tiễn đời sống của nhân dân, của cán bộ, chiến sĩ và
mức sống của họ làm gốc để đánh giá tài năng, đức độ, sự cống hiến của mỗi
người, sự trung thành, trong sáng của họ. Đảng ta và nhân dân bao giờ
cũng sáng suốt. Người dân lao động trông chờ, chỉ thật sự tin tưởng, đặt
niềm tin, hy vọng vào ai, tổ chức nào nếu tổ chức đó, người nào đó sống, chiến
đấu, lao động hết lòng vì họ; thật sự chăm lo cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc
của họ. Điều đó hoàn toàn phù hợp với mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của Đảng ta.
Trong bối cảnh, tình hình mới,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là tất yếu khách quan và
là một nguyên tắc không thể thay đổi. Bởi lẽ, với tư cách là một Đảng cầm
quyền, Đảng ta phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về vận mệnh phát triển của
dân tộc, sự phát triển và sự phồn vinh của đất nước, về độc lập, tự do, ấm no,
hạnh phúc của nhân dân. Cho nên năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là
những điều kiện đủ để Đảng thực hiện sự cầm quyền của mình, đưa đất nước đi lên
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, và nó đã được nhân dân Việt Nam thừa
nhận, suy tôn, Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất của mình; nhân
dân yêu mến, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đàng và gọi tên Đảng với sự trìu
mến, gần gũi, thân thương là Đảng ta.
Trước đây cũng như hiện nay, nếu không nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng thì nguy cơ sai lầm về đường lối có thể xảy ra; cán bộ,
đảng viên quan liêu, xa nhân dân hơn; nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Thực tiễn cách mạng nước ta đã khẳng
định rằng, để lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi, trước tiên Đảng Cộng sản Việt
Nam phải đề ra đường lối đúng đắn; đường lối ấy phải được xây dựng trên cơ sở
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với điều kiện cụ thể của
đất nước và nguyện vọng chính đáng của nhân dân…Có như vậy, đường lối ấy mới đi
vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực thực hiện và đường lối
ấy sẽ trở thành hiện thực. Nếu xem nhẹ hoặc xa rời những điều nêu trên thì
đường lối của Đảng đưa ra sẽ không sát thực, không đúng đắn, gây nên hậu quả
khó lường. Chính vì vậy, Đảng cầm quyền không được phép sai lầm về đường lối;
cán bộ, đảng viên phải làm tốt việc nêu gương, nhất là những người chủ trì cơ
quan, đơn vị.
Trước sự biến đổi phức tạp của
tình hình thế giới và yêu cầu mới của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay,
vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là tất yếu khách
quan, không có sự lựa chọn nào khác. Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng hãy nỗ lực
phấn đấu vươn lên, ra sức xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, giữ
vững bản lĩnh chính trị, tận dụng tốt thời cơ, quyết tâm vượt qua mọi nguy cơ,
thách thức; lãnh đạo cơ quan, đơn vị khắc phục triệt để những hạn chế, khuyết
điểm; phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao, chuẩn bị tốt
mọi điều kiện để vững tin bước vào thời kỳ mới; sát cánh kề vai cùng nhân dân
cả nước xây dựng đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc; góp phần cùng toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; góp phần thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hãy coi đấu tranh ngăn chặn, đẩy
lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một trong những nhiệm vụ
cấp bách của việc chống “giặc nội xâm” như Bác Hồ đã căn dặn chúng ta!.
1
HCM, Đường Kách mệnh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1995, tr.260
1, 4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996, tr.267,
229-306.
2 ,3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr.206, 322.
1, 2 Hồ Chí
Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb, Chính trị
quốc gia, Hà Nội,1996, tr.265, 261.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét