Đề cương về văn hóa Việt Nam do Đồng chí Trường Chinh, Tổng
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta
khởi thảo và được công bố năm 1943 trong bối cảnh chiến tranh thế giới thứ hai
đang lan rộng và ngày càng ác liệt. Ở Việt Nam, tình hình kinh tế, chính trị,
tư tưởng, văn hóa - xã hội rất phức tạp, mâu thuẫn giai cấp và dân tộc ngày
càng sâu sắc thêm. Nhân dân ta không những chịu cảnh “một cổ hai tròng” do quân
xâm lược Nhật, Pháp gây nên mà còn lâm vào tình cảnh lầm than, cơ cực do bè lũ
tay sai “bóp nặn” một cách dã nan, tàn ác. Đã thế, Phát xít Nhật và thực dân
Pháp lại thi nhau vơ vét, bóc lột và đàn áp nhân dân, khủng bố phong trào cách
mạng do Đảng ta lãnh đạo. Căm phẫn quân xâm lược sâu hơn vực thẳm, ý chí quyết
tâm đánh đuổi quân xâm lược cao ngút trời Nam.
Trước cảnh
nước mất, nhà tan, nghe theo tiếng gọi của Đảng, nhân dân ta đã đứng lên đánh
giặc cứu nước; các tổ chức vũ trang cách mạng lần lượt ra đời; phong trào quyên
góp lương thực, vũ khí, thuốc men, đưa con em tham gia các đội quân cách mạng
diễn ra khắp buôn làng, ngõ xóm. Trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên yêu
nước chịu ảnh hưởng của cách mạng đã đứng lên đấu tranh chống lại phát xít Nhật
và thực dân Pháp, đòi lại quyền tự do, độc lập cho dân tộc. Thế nhưng, quân
phát xít và thực dân đã cấu kết với bè lũ tay sai, dùng các thủ đoạn dã man,
tàn ác, kể cả thủ đoạn “trói buộc vǎn hoá và giết chết vǎn hoá Việt Nam” để
thực hiện mưu đồ xâm lược của chúng.
Trong bối cảnh ấy, Đảng ta
và Bác Hồ kính yêu đã quyết định triệu tập Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng
từ ngày 25 đến 28-2-1943 để bàn biện pháp đối phó với tình hình, quyết tâm đẩy
mạnh phong trào đấu tranh cách mạng trong cả nước, tiến tới chặn đứng và đập
tan âm mưu, thủ đoạn xâm lược của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Từ thực tiễn
hơn chục năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lại đứng trước những việc cần kíp
phải làm ngay để kịp thời ngăn chặn tàn bàn tay nhuốm máu đầy tội ác của phát
xít Nhật và thực dân Pháp; Đảng ta nhận định rằng, trong lúc này, Đảng cần phải có các tổ chức và đội ngũ cán bộ
chuyên môn hoạt động về văn hoá, văn nghệ để gây dựng và thúc đẩy phong trào
văn hoá tiến bộ, văn hoá cứu quốc nhằm chống lại văn hoá phát xít thụt lùi, văn
hóa phong kiến bảo thủ, lạc hậu...Vì vậy, tại Hội nghị Thường vụ Trung
ương lần này, Đảng ta khẳng định rõ thái độ của mình đối với vấn đề vǎn hoá và
nó được ghi rõ trong Đề cương về văn hóa Việt Nam công bố năm 1943:
“1. Phạm vi vấn đề: Vǎn hoá bao gồm cả tư tưởng,
học thuật, nghệ thuật. 2. Quan hệ giữa vǎn hoá và kinh tế, chính trị: nền tảng
kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn
bộ vǎn hoá của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc). 3.
Thái độ Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề vǎn hoá:
a) Mặt trận vǎn hoá là một trong ba mặt trận
(kinh tế, chính trị, vǎn hoá), ở đó người cộng sản phải hoạt động.
b) Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn
phải làm cách mạng vǎn hoá nữa.
c) Có lãnh
đạo được phong trào vǎn hoá, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền
của Đảng mới có hiệu quả.”[1]
Có
thể khẳng định rằng, Đề cương văn hoá Việt Nam
là bản
cương lĩnh văn hoá đầu tiên của Đảng ta, đã nêu ra hai ức thuyết về tiền đồ văn
hoá Việt Nam.
Một
là, "nền văn hoá phát xít (văn hoá trung cổ và nô dịch hoá)
thắng thì văn hoá dân tộc Việt Nam
nghèo nàn và thấp kém. Hai là, văn hoá dân tộc
Việt Nam
sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ
đuổi kịp văn hoá dân chủ thế giới"[2].
Trong Đề cương, Đảng ta đặt vấn đề: Trong “Hai ức thuyết, cái nào sẽ trở nên sự
thực?” và khẳng định: " Cǎn cứ vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
hiện nay, cách mạng dân tộc Việt Nam nhất quyết sẽ làm cho ức thuyết
thứ hai trở nên thực sự".[3]
Trong bối
cảnh xã hội Việt Nam thời đó, “vǎn hoá nửa phong kiến, nửa tư sản và hoàn toàn
có tính cách thuộc địa” thống trị thì sự ra đời của Đề cương văn hoá Việt Nam có thể coi là một ngọn đuốc sáng thần
kỳ, có tác dụng soi đường, chỉ lối và định hướng tư tưởng, nhận thức, phương
châm hoạt động văn hóa, văn nghệ cho toàn Đảng, toàn dân và cuộc đấu tranh cách
mạng ở Việt Nam; đặc biệt là nó đã lôi cuốn, thuyết phục và tập hợp đông đảo
những người hoạt động văn hoá yêu nước Việt Nam vào Hội văn hoá cứu quốc, một
thành viên của Mặt trận Việt Minh; khai sinh và phát triển nền “vǎn hoá xã hội
chủ nghĩa” ở nước ta. Vì vậy, Đảng nhấn mạnh: “Những phương pháp cải cách vǎn
hoá đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau”, tức là
chuẩn bị cho “cách mạng chính trị thành công”.
Trên cơ sở thế giới quan,
nhân sinh quan và phương pháp luận biện chứng duy vật, Đề cương văn hoá Việt Nam đã luận giải một cách sắc sảo
tình hình tư tưởng, văn hoá, xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, chỉ ra sự
tác động của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai và tội ác tột cùng của phát
xít Nhật cùng thực dân Pháp cấu kết với bọn tay sai, bán nước giầy xéo Tổ quốc
Việt Nam. Đề cương cũng chỉ rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn dã man, tàn ác của
phát xít Nhật và thực dân Pháp trong việc trói buộc và bức tử nền văn hoá nước
ta; qua đó, cảnh báo nguy cơ có thể bị diệt vong đối với một quốc gia dân tộc
có bề dầy truyền thống lịch sử, văn hóa, có độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ dưới gót dày quân xâm lược: phát xít Nhật và thực dân Pháp.
Vì vậy, nhiệm vụ cần kíp của những người cộng
sản và các nhà văn hóa cách mạng ở Đông Dương, của cách mạng văn hóa, tư tưởng
ở Việt Nam lúc bấy giờ được Đảng ta khẳng định là đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn
thâm độc của quân xâm lược và bè lũ tay sai, cứu lấy nước, giữ lấy nhà, bảo vệ
cho được các giá trị văn hóa dân tộc, phẩm giá, nhân cách con người Việt Nam.
Để làm tròn sứ mệnh cao cả, thiêng liêng của mình, Đảng ta khẳng định: “cách
mạng vǎn hoá muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo” và nó
phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc mác xít - lêninnít. Mục tiêu, con đường,
phương châm, nguyên tắc, phương pháp thực hiện cuộc cách mạng văn hóa ở nước
ta, trước hết phải nắm vững “ba nguyên tắc vận động cuộc vận động vǎn hoá nước
Việt Nam
trong giai đoạn này:
a) Dân tộc hoá (chống mọi
ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho vǎn hoá Việt Nam phát triển
độc lập).
b) Đại chúng hoá (chống
mọi chủ trương hành động làm cho vǎn hoá phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa
đông đảo quần chúng).
c) Khoa học hoá (chống
lại tất cả những cái gì làm cho vǎn hoá trái khoa học, phản tiến bộ)”[4].
Trên cơ sở nắm vững và
thực hiện nhất quán ba nguyên tắc nêu trên, Đảng ta đồng thời khẳng định: “Muốn
cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch liệt chống những xu hướng vǎn hoá
bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm, v.v.. Nhưng đồng thời
cũng phải chống xu hướng vǎn hoá quá trớn của bọn tờrốtkít”[5].
Trước mắt, tích cực đấu tranh, vạch trần những hạn chế, khuyết điểm của các
“học thuyết, tư tưởng (đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á, có
ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở ta: triết học Khổng, Mạnh, Đềcác (Descartes),
Bécsông (Bergson), Cǎng (Kant), Nítsơ (Niesche), v.v. ; làm cho thuyết duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử thắng”, “Tranh đấu về tông phái vǎn nghệ (chống
chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng
trưng, v.v.) làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng” [6].
Căn cứ vào
các điều kiện khách quan của tình hình thế giới và tác động, ảnh hưởng của nó
đến sự biến đổi tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam; sự phát triển
rộng khắp của phong trào đấu tranh cách mạng chống quân xâm lược và bè lũ tay
sai; ngay sau khi công bố Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, những người cộng
sản và các nhà văn hoá, trí thức yêu nước đã tin tưởng, nhiệt tình ủng hộ, tổ
chức nhiều cuộc vận động xây dựng nền văn hóa mới - văn hóa cách mạng, văn hóa
xã hội chủ nghĩa. Trong các văn kiện, sách báo của Đảng, trên các phương tiện
thông tin đại chúng có được lúc bấy giờ đều nhất quán khẳng định giá trị tư
tưởng, quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” của Đề cương văn hóa Việt Nam, quyết
tâm thực hiện và đưa vào đời sống quan điểm, tư tưởng, mục tiêu và ba nguyên
tắc "dân tộc hoá", "đại chúng hoá", "khoa học
hoá" của nền văn hoá Việt Nam mà Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ
ra. Đồng thời, làm cho "xu trào văn hoá mới của Việt Nam đang cố
vượt hết mọi trở lực để nảy nở... ", xâm nhập ngày càng sâu rộng vào đời
sống nhân dân và phong trào cách mạng đang lên. Việc khẳng định thế giới quan
khoa học, nhân sinh quan cách mạng, phương pháp luận biện chứng duy vật của Đề
cương văn hóa Việt Nam năm 1943 trong các tài liệu, sách báo văn hóa cách mạng
từ Nam ra Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi đã được triển khai thực hiện thống
nhất, xu hướng phát triển tốt, tác dụng ngày càng cao, hỉệu quả rất thiết thực.
Lý luận và
thực tiễn cách mạng Việt Nam đều chỉ ra rằng, cái gốc của đường lối văn hoá,
văn nghệ của Đảng không phải cái gì khác mà chính là Đề cương văn hoá Việt Nam
năm 1943 và từ cái gốc dễ “nguồn cội” ấy, cây “văn hóa, văn nghệ xã hội chủ
nghĩa” ở nước ta đã đâm chồi, nảy lộc, vươn cành ngày càng xanh tươi, nở hoa,
kết trái, đã và đang đem lại hương thơm, vị ngọt cho đời
Cái gốc dễ
“nguồn cội” của nền văn hóa mới - văn hóa xã hội chủ nghĩa, của đường lối văn
hóa, văn nghệ của Đảng ta chính là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về văn hoá, là “thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử” - hạt nhân lý luận của hệ tư tưởng của giai cấp
vô sản, thế giới quan khoa học, nhân sinh quan và phương pháp luận cách mạng
đúng đắn nhất để “nhận thức và cải tạo thế giới” vì lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động, tha thiết yêu chuộng hòa bình, độc lập, tự do, hạnh
phúc; là phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa được Đảng ta vận dụng
nhuần nhuyễn, sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam;
được những người cộng sản, các nhà tư tưởng, văn hóa Việt Nam đón nhận, bổ
sung, phát triển, làm giàu có, phong phú và sâu sắc thêm từ đời sống thực tiễn sinh
động của cách mạng Việt Nam. Và chính nó đã trở thành động lực tinh thần to
lớn, có tác dụng thức tỉnh các tầng lớp nhân dân; thu hút, lôi cuốn, thuyết
phục không ít các văn nghệ sĩ, binh lính người Việt tham gia quân đội phát xít,
thực dân, đế quốc; làm tay sai cho địch đã quay về với cách mạng, “đồng cam
cộng khổ” cùng đồng bào, chiến sĩ cả nước “nếm mật, nằm gai” dũng cảm, mưu trí,
sáng tạo chiến đấu chống kẻ thù xâm lược; từng bước đưa cách mạng đi đến thắng
lợi, thực hiện thành công cách mạng tháng Tám năm 1945, khai sinh nước Việt Nam
dân chủ Cộng hòa, sáng lập nên nhà nước của giai cấp công nông đầu tiên ở Đông
Nam châu Á; thực hiện thống nhất nước nhà, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cái gốc dễ
“cội nguồn” của nền văn hóa mới, văn hóa xã hội chủ nghĩa, của đường lối văn
hóa, văn nghệ ở nước ta, nói cho cùng, là đường lối chính trị đúng đắn, sáng
tạo, nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở nước ta, văn hoá văn nghệ xã hội
chủ nghĩa do Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo và nó luôn luôn được
coi là “một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hoá) để thực hiện mục
tiêu “cải tạo xã hội”; phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, vì độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Điều đó hoàn toàn đúng với lời chỉ dẫn của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, khi các ông nhấn mạnh vị trí, vai trò của văn hóa cách
mạng trong cuộc đấu tranh sinh tử với kẻ thù để xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất
công, thực hiện sứ mệnh: giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng dân
tộc, giải phóng con người và giải phóng nhân loại. Sự đúng đắn và nhất quán đó
chứa đựng nhân tố phát triển liên tục, bền vững, bao hàm văn hóa Đảng trong đó
và nó mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Với sự ra đời
của Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943, hoạt động của các tổ chức văn hóa, văn
nghệ của Đảng, nhất là hoạt động sáng tạo của các nhà báo, nhà văn, nghệ sĩ
ngày càng phong phú và sắc bén; họ luôn bám sát nhiệm vụ Đảng giao, phản ánh
sắc xảo, sinh động đời sống thực tiễn đấu tranh cách mạng, kịp thời động viên,
cỗ vũ phong trào toàn dân thi đua tăng gia sản xuất, giết giặc lập công, xây
dựng đời sống văn hóa mới. Sự “lột xác” của không ít văn nghệ sĩ thể hiện ở chỗ
dám trút bỏ “bộ cánh ủy mị, thướt tha”, tâm hồn mộng mơ, suốt ngày “du với gió,
mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”, thậm chí “để tâm hồn treo ngược ở cành cây,
hay lả lướt đìu hưu cùng ngọn gió” để quay về với đời sống hiện thực, hòa mình
vào cuộc sống chiến đấu, lao động, học tập của đồng bào, biết “dùng ngòi bút
làm đòn xoay chế độ, mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền” (Sóng Hồng). Vì vậy,
trong sáng tác và tác phẩm của họ đã sáng ngời “ánh thép” và các văn nghệ sĩ đã
biết “xung phong”. Khẳng định điều này, nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: “Người đã
thay đổi đời tôi, thay đổi thơ tôi”.
Đi theo cách
mạng, tắm mình trong thực tiễn, trực tiếp cầm bút và cầm súng chiến đấu; sử
dụng sáng tạo phương pháp sáng tác xã hội chủ nghĩa, các văn nghệ sĩ nước ta
thật sự đã trở thành những dũng sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa, tư tưởng,
lý luận của Đảng; đã góp phần to lớn vào việc đưa ánh sáng của Đảng đến với
đồng bào, chiến sĩ, củng cố niềm tin chiến thắng cho họ; qua đó, thổi luồng
không khí cách mạng vào đời sống xã hội Việt Nam; làm cho kẻ thù lo sợ. Nhiều
tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị ra đời, khắc họa sinh động hình tượng
“Bộ đội Cụ Hồ”, phản ánh sát thực chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí
Minh; có tác dụng tuyên truyền, giáo dục to lớn...
Đáng kể trong
kho tàng văn hóa, văn nghệ cách mạng là những bức thư, bài nói viết của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và của các văn nghệ
sĩ về văn hoá, văn nghệ; là các văn kiện, tài liệu và nghị quyết của các kỳ Đại
hội Đảng; đặc biệt là Nghị quyết Trung ương Năm, khoá VIII (bước phát triển cao
dựa trên nền móng Đề cương văn hoá Việt
Nam năm 1943) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhờ đó, đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng ngày
càng sáng rõ, tỏa sáng; các tổ chức văn hóa, văn nghệ ở nước ta ngày càng được
củng cố, phát huy tốt hơn vai trò, tác dụng. Lý luận văn hoá, văn nghệ Việt Nam
ngày càng phong phú và sắc nét. Văn hóa, văn nghệ đã và đang có những đóng góp
quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước, đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
Với đường lối
đổi mới đúng đắn, sáng tạo, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang ra sức xây dựng
là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; làm cho văn hoá thật sự là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc của
nhân dân. Ở nước ta, văn hóa luôn luôn là một mặt trận; chăm lo xây dựng, phát triển văn hoá là
chăm lo cũng cố nền tảng tinh thần của xã hội và nó là sự nghiệp của
toàn dân, của cả hệ thống chính trị, do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí
thức, các văn nghệ sĩ giữ vai trò quan trọng. Trong những năm đổi mới toàn diện
đất nước, Đảng, Nhà nước, các bộ ngành, địa phương, các tổ chức chính trị, văn
hóa, xã hội đã và đang quan tâm xây dựng mới, bổ sung, hoàn thiện nhiều văn bản
pháp luật, các nghị định, thông tư nhằm điều chỉnh và tạo hành lang pháp lý cho
các hoạt động văn hóa, văn nghệ phát triển, phù hợp với tình hình mới. Theo đó,
các thiết chế văn hóa từ trung ương đến địa phương cũng được kiện toàn, củng cố
và ngày càng được tăng cường. Nhiều công trình văn hóa mới được xây dựng và
đang hoạt động có hiệu quả như thư viện, bảo tàng, tượng đài các anh hùng dân
tộc, danh nhân văn hóa. Đời sống văn hoá, văn nghệ ở cơ sở có bước phát triển,
thu hút đông đảo cán bộ, chiến sĩ và quần chúng nhân dân tham gia sáng tạo,
hưởng thụ và bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống và cách mạng. Việc chấn
hưng nền văn hóa dân tộc trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là những minh chứng hùng hồn
khẳng định sự nhất quán, sức sống bền vững của đường lối văn hóa, văn nghệ đúng
đắn đã được Đảng ta vạch ra từ Đề
cương văn hoá Việt Nam năm1943.
Kỷ niệm 70
năm ngày ra đời Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là dịp tốt để chúng ta ôn
lại và nhìn thấy rõ hơn những giá trị soi đường, tác dụng định hướng của Đề
cương; qua đó nhận thức đúng hơn nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với sự
nghiệp xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc trong giai đoạn mới. Chúng ta đang đứng trước những thời cơ, vận hội lớn,
song cũng đang đối mặt với những khó khăn, thách thức mà toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đặt ra cần phải
giải quyết.
Để xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta
cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, văn nghệ cách
mạng; coi sự nghiệp phát triển văn hóa, văn nghệ là trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân; đầu tư cho văn hóa, văn nghệ là đầu tư cho con người và
cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Vì vậy, giữ gìn, phát huy truyền
thống văn hóa dân tộc; đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, đầu tư ngân sách
xây dựng, phát triển các thiết chế văn hóa, công trình văn hóa mới; tích cực
đào tạo, bồi dưỡng, phát huy các tài năng văn hóa nghệ thuật; kích thích, khơi
dậy tiềm năng sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân cũng như đổi mới công
tác quản lý các hoạt động trong lĩnh vực này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong bối cảnh hiện thời, đẩy mạnh và thực hiện
tốt chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa nghệ thuật; phương châm Nhà nước và
nhân dân cùng làm là một giải pháp tích cực; tạo ra động lực mới khuyến khích
sự đóng góp sức người, tiền của từ các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và nhân dân
để phát triển văn hóa, nghệ thuật là rất cần thiết. Quan tâm khuyến khích các
văn nghệ sĩ lao động sáng tạo để có nhiều tác phẩm, công trình có chất lượng
tốt, có tiếng vang và tầm ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, mang tầm vóc thời
đại; có biện pháp tối ưu để giữ gìn, phát huy các di sản văn hóa dân tộc. Đồng
thời, tiếp tục sáng tạo, bồi đắp, bổ sung những giá trị văn hóa mới, trên cơ sở
mở rộng hợp tác, giao lưu văn hóa với các nước; tiếp thu có chọn lọc các giá
trị nhân văn, khoa học, tinh hoa văn hóa, nghệ thuật nước ngoài để bổ sung, làm
giàu có bản sắc, tâm hồn, cốt cách, nhân cách người Việt Nam hiện đại. Tích cực
đấu tranh bài trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản động, đồi trụy; khắc phục
thái độ xem nhẹ vai trò văn hóa và các giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc. Phấn đấu thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc - định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ mà Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 đã
vạch ra là quyền lợi, nghĩa vụ và trách
nhiệm của chúng ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét